Thơ

Đại Nam quốc sử diễn ca - I. Nhà Hồng Bàng (2879-256 trước TL)  - Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái  - Thơ

08/01/2015 08:56
Lượt xem 15613

I. Thời-kỳ mở nước (Thế-kỷ 29 - thế-kỷ 2 trước TL)

i. Nhà Hồng Bàng (2879-256 trước TL)

1. Mở Đầu

Nghìn thu gặp hội thăng-bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan-đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc-ngữ diễn lời sử xanh.
Nam-giao là cõi ly-minh,
Thiên-thư định phận rành rành từ xưa.
Phế-hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị-phi chép để đến giờ làm gương.

2. Kinh Dương-vương

Kể từ trời mở viêm-bang,
Sơ đầu có họ Hồng-bàng mới ra.
Cháu đời Viêm-đế thứ ba,
Nối dòng Hỏa-đức gọi là Đế-minh.
Quan-phong khi giá Nam-hành,
Hay đâu Mai-lĩnh duyên sinh Lam-kiều,
Vụ-tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
Dòng thần sánh vời người tiên,
Tinh-anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân-trưởng nước ta,
Tên là Lộc-tục, hiệu là Kinh-dương.
Hóa-cơ dựng mối luân-thường.
Động-đình sớm kết với nàng Thần-long.
Bến hoa ứng vẻ lưu-hồng
Sinh con là hiệu Lạc-long trị-vì.

3. Lạc-long-quân và Âu-Cơ

Lạc-long lại sánh Âu-ky.
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
Noãn-bào dù chuyện hoang-đường,
Ví-xem huyền-điểu sinh Thương khác gì?
Đến điều tan-hợp cũng kỳ,
Há vì thủy hỏa sinh-ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Qui sơn, qui hải khác người biệt-ly.
Lạc-long về chốn Nam-thùy,
Âu-cơ sang nẻo Ba-vì Tản-viên.
Chủ-trương chọn một con hiền,
Sửa-sang việc nước nối lên ngôi rồng.

4. Hùng-vương và nước Văn-lang

Hùng-vương đô ở châu Phong,
Ấy nơi Bạch-hạc hợp dòng Thao-giang.
Đặt tên là nước Văn-lang,
Chia mười lăm bộ, bản-chương cũng liền.
Phong-châu, Phúc-lộc, Chu-diên,
Nhận trong địa-chí về miền Sơn-tây;
Định-yên, Hà-nội đổi thay,
Ấy châu Giao-chỉ xưa nay còn truyền.
Tân-hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ-ninh tỉnh Bắc, Dương-tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn-đồng,
Ấy là Vũ-định tiếp cùng biên-manh;
Hoài-hoan: Nghệ; Cửu-chân: Thanh;
Việt-thường là cõi Trị, Bình trung-châu.
Lạng là Lục-hải thượng-du
Xa khơi Ninh-hải thuộc vào Quảng-yên.
Bình-văn, Cửu-đức còn tên,
Mà trong cương-giới sơn xuyên chưa tường.
Trước sau đều gọi Hùng-vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
Lạc-hầu là tướng điều-nguyên,
Vũ là Lạc-tướng giữ quyền quân-cơ;
Đặt quan Bồ-chinh hữu-tư
Chức-danh một bực, đẳng-uy một loài.

5. Giao-thiệp với Trung-Hoa

Vừa khi phong-khí sơ-khai,
Trinh-nguyên xẩy đã gặp đời Đế-Nghiêu.
Bình-dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng-dương.
Thần-quy đem tiến Đào-đường,
Bắc Nam từ ấy giao-bang là đầu.
Man-dân ở chốn thượng-lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị-sinh.
Thánh-nhân soi xét vật-tình,
Đem loài thủy-quái vẽ mình thổ-nhân.
Từ sau tục mới văn-thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
Dõi truyền một mối xa-thư,
Nước non đầm-ấm, mây mưa thái-binh.
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
Thử thăm Trung-quớc thể nào,
Lại đem bạch-trĩ dâng vào Chu-vương.
Ba trùng dịch-lộ chưa tường,
Ban xe tí-ngọ chỉ đường Nam-quy.

6. Chuyện Phù-Đổng Thiên-vương

Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ-ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù-đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói,chẳng cười trơ-trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần-tướng đợi chờ phong-vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích-ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
Lấy trung làm hiếu một đường phân-minh.
Sứ về tâu trước thiên-đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo nhung cởi lại Linh-san,
Thoắt đà thoát nợ trần-hoàn lên tiên.
Miếu-đình còn dầu cố-viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu-truyền có không?

7. Chuyện Sơn-tinh và Thủy-tinh

Lại nghe trong thủa Lạc-Hùng
Mị-châu có ả tư-phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung-trang.
Thừa-long ai kẻ đông-sàng sánh vai?
Bỗng đàu vừa thấy hai người,
Một Sơn-tinh với một loài Thủy-tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng-vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa-anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu-hoa đã thấy Sơn-tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi-gia.
Cung đàn tiếng địch xa-xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thủy-tinh lỡ bưởc chậm chân,
Đùng-đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịt-mù,
Ào-ào rừng nọ, ù-ù núi kia,
Sơn thần hỏa phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.

8. Chuyện Chử-Đồng-tử và Tiên-dung

Bổ-di còn chuyện trích-tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái-châu.
Ra vào nương-náu hà-châu.
Phong-trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên-dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng-các, buồm xuôi Nhị-hà,
Chử-đồng ẩn chốn bình-sa
Biết đâu gặp-gỡ lại là túc-duyên.
Thừa-lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
Người thục-nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng-vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hóa về Bồng-châu,
Đông-an, Dạ-trạch đâu đâu,
Khói hương nghi-ngút truyền sau muôn đời.

9. Hết đời Hồng-Bàng

Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng-Lạc lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng phụ-đạo xưa nay,
Trước ngang Đường-đế sau tầy Noãn-vương

Các tác phẩm khác

Về nghỉ nhà  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:14
Lượt xem 24714
Tóc bạc, lòng son chửa dám già
Ơn vua nhờ được nghỉ về nhà
Nước non cây cỏ còn như cũ
Ghế gậy cân đai thế cũng là

Nghe hát đêm khuya  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:12
Lượt xem 10528
Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy
Nửa chen mặt nước, nửa từng mây
Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước
Ngán kẻ phương trời chẳng dứt dây

Chế ông đồ Cự Lộc  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:10
Lượt xem 11467
Văn hay chữ tốt ra tuồng
Văn dai như chão, chữ vuông như hòm
Vẻ thấy như vẻ con tôm
Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương

Mừng con dựng được nhà  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:10
Lượt xem 6033
Nghĩ ta, ta cũng sướng ru mà
Mừng thấy con ta dựng được nhà
Năm mới lệ thường thêm tuổi một
Cỗ phe ngôi đã chốc bàn ba

Lời vợ anh phường chèo  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:09
Lượt xem 19324
Xóm bên đông có phường chèo trọ
Đương nửa đêm gọi vợ chuyện trò
Rằng: “ Ta thường làm quan to,
Sao người coi chẳng ra trò trống chi ?”

Bồ tiên thi ()  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:08
Lượt xem 27504
Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò
“Bồ tiên thi” lại lấy vần bồ
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ
Ngọng ngẹo văn chương giở giọng ngô

Chợ đồng  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:07
Lượt xem 27140
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không ?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét,
Nếm rượu, tường đền được mấy ông ?

Chơi chợ trời Hương Tích  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:06
Lượt xem 25662
Ai đi Hương Tích chợ trời đi !
Chợ họp quanh năm cả bốn thì
Đổi chát người tiên cùng khách bụt
Bán buôn gió chị lại trăng dì

Chơi núi non nước  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:05
Lượt xem 18210
Chom chỏm trên sông đá một hòn
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn ?
Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con

Than mùa hè  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:05
Lượt xem 24391
Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả

Hiển thị 991 - 1000 tin trong 2299 kết quả