Thơ

Đại Nam quốc sử diễn ca - III. Nhà Triệu (207-111 trước TL)  - Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái  - Thơ

08/01/2015 08:51
Lượt xem 30594

iii. Nhà Triệu (207-111 trước TL)

1. Triệu Vũ vương thần phục nhà Hán

Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ-hiểm đóng ngoài Phiên-ngu .
Loạn Tần gặp lúc Ngư-Hồ ,
Trời nam riêng mở dư-đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiếm-dương ,
Mới sai Lục-Giả đem sang ấn phù .
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thùy gìn giữ cơ đồ vững an.
Gặp khi gà Lữ gáy càn ,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lòng.
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhà.
Thân chinh hỏi tội Tràng-sa
Mân, Âu muôn dặm mở ra một lần.
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục-giả cựu thần lại sang.
Tỉ thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thủy chung.
Triệu vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chầu.
Ngoài tuy giữ lễ chư-hầu,
Trong theo hiệu đế làm đầu nước ta.
Trăm hai mươi tuổi mới già,
Tính năm ngự vị kể già bảy mươi.

2. Triệu-Văn-vương và Triệu-Minh-vương

Văn-vương vừa nối nghiệp đời,
Lửa binh đâu lại động ngoài biên-cương.
Phong thư tâu với Hán-hoàng,
Nghĩa-thanh sớm đã giục đường cất quân.
Vương-Khôi vâng lịnh tướng-thần,
Ải-lang quét sạch bui trần một phương.
Hán-đình có chiếu ban sang,
Sai con Triệu lại theo đường cống-nghi.
Xe rổng phút bỗng mây che,
Minh-vương ở Hán lại về nối ngôi.
Bợm già bỗng rấm họa-thai,
Vợ là Cù-thị vốn người Hàm-đan
Khuynh-thành quen thói hồng-nhan,
Đã chuyên sủng-ái lại toan tranh-hành.
Dâng thư xin với Hán-đình,
Lập con thế-tử, phong mình cung-phi.

3. Cù-thị xin nhập Hán

Ai-vương thơ-ấu nối vì,
Mẹ là cù-hậu, nhiều bề riêng tây.
Cầu phong đã rắp những ngày,
Ngoài thông Bắc-sứ trong gầy lệ-giai.
Khéo đâu dắc-díu lạ đời,
Sứ là Thiếu-Quý vẫn người tình-nhân.
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao-hoan đôi mặt, hòa-thân một lòng.
Nghĩ rằng: về Hán là xong,
Tình riêng phải mượn phép công mới già.
Làm thư gửi sứ đưa qua;
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chầu.

4. Lữ-Gia phá mưu Cù-Thị

Lữ-Gia là tướng ở đầu.
Đem lời can gián bây mưu xa gần.
Một hai ngăn đón hành-trần:
" Để cho Triệu-bích về Tần sao nên."
Nàng Cù đã quyết một bên.
Lại toan mượn lấy sứ-quyền ra tay.
Tiệc vui chén cúc giở say,
Mắt đưa cao thấp, giáo lay dùng-dằng.
Đang khi hoan-yến nửa chừng,
Lữ-Gia biết ý ngập-ngừng bước ra.
Chia quân cấm-lữ về nhà,
Tiềm-mưu mới họp năm ba đại-thần.
Đôi bên hiềm-khích thêm phần
Mụ Cù yếu sức, sứ-thần non gan.

5. Hán đánh Nam-Việt

Vũ-thư đạt đến Nam-quan,
Hán sai binh-mã hai ngàn kéo sang
Lữ-Gia truyền hịch bốn phương:
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm-ô;
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,
Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch không.
Rắp toan bán nước làm công.
Quên ơn thủa trước, không lòng mai sau.
Cũng tuồng Lữ-Trĩ khác đâu,
Chồi non chẳng bẻ, rễ sâu khó đào.
Quan-binh một trận đổ vào,
Lửa nào tiếc ngọc, nắng nào tiếc hoa.

6. Nhà Triệu mất

Vệ-Dương lên nối nghiệp nhà,
Trong là quốc nạn, ngoài là địch-nhân.
Hai nghìn giết sạch Hán-quân,
Đem cờ sứ-tiết để gần ải-quan.
Tạ-từ giả tiếng nói van,
Mấy nơi yếu-hại sai quan đề-phòng,
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh-tiến, năm đường giáp-công.
Trong thành một ngọn lửa thông,
Chiêu-hàng ngoài mạc, hội-đồng các dinh.
Chạy ra lại gặp truy binh,
Vệ-vương, Lữ-tướng buộc mình cửa hiên.
Kể từ Triệu-lịch kỷ-niên,
Năm ngoài chín chục, ngôi truyền năm vua.
Trách ai gây việc tranh đua,
Vắn đài vận nước, được thua cơ trời.

Các tác phẩm khác

Pushkin (1799-1837) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:18
Lượt xem 22996
Aleksandr Sergeyevich Pushkin (tiếng Nga: Александр Сергеевич Пушкин (trợ giúp·chi tiết); 1799 – 1837) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ XIX.
Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d'Anthès, một sỹ quan kỵ binh trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – ngày 10 tháng 2 năm 1837 (29 tháng 1 trong lịch Julian).

Phương Triều (1942 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:17
Lượt xem 18067
Phương Triều, nhà thơ, Tên thật là Lê Huỳnh Hoàng, sinh ngày 02 tháng 06 năm 1942 tại Sa Ðéc. Dạy học (Trung học tư thục Cộng Hòa, đường Trương Minh Giảng, Sài-gòn). Gia nhập làng báo Sài-gòn năm 1959.

Nguyễn Vũ Tiềm (1940 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:17
Lượt xem 17001
Nguyễn Vũ Tiềm, sinh năm: 1940, nơi sinh: Gia Lâm - Hà Nội
Bút danh: Hướng Thiện
Hội viên: Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh.

Nguyễn Trung Kiên (1973 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:16
Lượt xem 20019
Nguyễn Trung Kiên sinh ngày 28/4/1973 tại Hà nội, hiện ở 218/23 Phú Thọ Hoà, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh.
Đôi dép là tên một bài thơ của tác giả Nguyễn Trung Kiên viết về tình yêu và nổi tiếng vì được lan truyền trên mạng toàn cầu.

Nguyễn Khoa Điềm (1943 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:15
Lượt xem 26934
Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn Hải Dương; sinh 15 tháng 4 năm 1943) là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm sinh tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Thân sinh của ông là nhà báo Hải Triều, thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng [1], gốc An Dương (tỉnh Hải Dương cũ nay là Hải Phòng) [2]. Quê quán: làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Hiện nay, ông nghỉ hưu và sống tại Thành phố Huế.

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:15
Lượt xem 29058
Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.
Nguyễn Công Trứ con quan Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Mai Đình (1917- 1999) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:13
Lượt xem 19217
Nữ sĩ Mai Đình (1917-1999), tên thật là Lê Thị Mai, nguyên quán Nông Cống tỉnh Thanh Hoá. Mai Đình sinh trưởng trong một gia đình khá giả, phụ thân là một tuỳ viên làm việc ở Toà sứ Phan Thiết. Là một cô gái có học, biết tiếng Pháp, làm thơ (có một số bài đã đăng báo).
Ngày 16/10/1999 nữ sĩ Mai Đình từ giã cõi đời nhẹ nhàng như một bài thơ, hưởng thọ 83 tuổi, tại nhà riêng số 225/14, đường Xô Viết - Nghệ Tĩnh, TP Hồ Chí Minh. Nhắc đến Mai Đình người ta liên tưởng đến nhà thơ Hàn Mạc Tử, người mà nữ sĩ vẫn luôn yêu thương bằng trái tim chân thành và nóng bỏng.

Luân Tâm (1944 -...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:11
Lượt xem 20350
Luân Tâm tên thật Phan Văn Tám, đôi khi ký Minh Tâm, Sinh năm 1944 tại Bến Tre, Học sinh trường Trung Học Công Lập Bến Tre, Trung Học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho
Định cư tại Hoa Kỳ với vợ và 3 con từ cuối năm 1994.

Lâm Thị Mỹ Dạ (1949 -...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:11
Lượt xem 19107
Lâm Thị Mỹ Dạ (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1949), là một nhà thơ nữ Việt nam, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Lâm Thị Mỹ Dạ sinh tại quê: huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Hiện bà đang sống tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chồng bà, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một nhà văn, nhà thơ có tiếng ở Việt nam.

Huyền Minh (1969 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:09
Lượt xem 20394
Nhà thơ Huyền Minh, là cử nhân Văn hoá, sinh ngày 09/11/1969. Hiện là Phó Trưởng phòng Biên tập - Xuất bản kiêm Thư ký toà soạn Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Huyền Minh vốn gốc gác miền xuôi nhưng sinh ra và lớn lên ở Hà Giang nên chị rất hiểu núi non, sông suối, cỏ cây và con người Hà Giang.

Hiển thị 111 - 120 tin trong 2297 kết quả