Thơ

Đại Nam quốc sử diễn ca - V. Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43-544)  - Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái  - Thơ

08/01/2015 08:46
Lượt xem 25909

v. Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 - 544)

1. Chính sách nhà Đông Hán

Trải Minh, Chương đến Hiếu, An ,
Tuần-lương đã ít, tham-tàn thiếu đâu.
Mới từ Thuận-đế về sau,
Đặt quan thứ-sử thuộc vào chức phương .
Kìa như Phàn-Diễn, Giả-Xương,
Chu-Ngu, Lưu-Tảo dung thường kể chi.
Trương-Kiều thành tín phủ-tuy ,
Chúc-Lương uy đức, man di cũng gần.
Hạ-Phương ân-trạch ngấm nhuần,
Một châu tiết-việt hai lần thừa tuyên.

2. Lý-Tiến, Lý-Cầm làm quan nhà Hán

Tuần-lương lại có Mạnh-Kiên,
Khúc ca Giả-phủ vang miền trung-châu.
Ba năm thăng trạc về chầu,
Thổ quan Lý-Tiến mới đầu Nam-nhân.
Sở kêu:" Ai chẳng vương-thần,
Sĩ-đồ chi để xa gần khác nhau?"
Tình-từ động đến thần-lưu,
Chiếu cho cống-sĩ bổ châu huyện ngoài.
Lý-Cầm chầu-chực điện-đài,
Nhân khi Nguyên-đán kêu lời xa-xôi.
Rằng:" Sao phủ-tái hẹp-hòi?
Gió mưa để một cõi ngoài < a href=" #20" >Viêm-phương " .
Tấm-thành cũng thấu quân-vương,
Trung-châu lại mới bổ sang hai người.
Nước Nam mấy kẻ nhân-tài,
Mới cùng người Hán chen vai từ rày.

3. Họ Sĩ tự-chủ

Lửa lò Viêm-Hán gần bay,
Thế chia chân vạc, nào hay cơ trời.
Tranh nhau ba nước ba nơi,
Cầm quyền sinh-sát mặc người phong-cương.
Nho-lưu lại có Sĩ-vương,
Khơi nguồn Thù-Tứ , mở đường lễ-văn.
Phong-tiêu rất mực thú-thần,
Sánh vai Đậu-Mục, chen chân Triệu-Đà.
Sĩ-Huy nối giữ tước nhà,
Dứt đường thông-hiếu, gây ra cừu-thù.
Cửa hiên phút bỗng hệ-tù,
Tiết-mao lại thuộc về Ngô từ rầy.

4. Bà Triệu-Ẩu đánh Ngô

Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục-Dận sang thay phiên-thần.
Anh-hùng chán mặt phong trần,
Nữ-nhi lại cũng có lần cung-đao.
Cửu-chân có ả Triệu-kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn người.
Gặp cơn thảo-muội cơ trời,
Đem thân bồ-liễu theo loài bồng tang.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn-thôn mấy cõi chiến-trường xông-pha.
Chông gai một cuộc quan-hà ,
Dù khi chiến-tử còn là hiển-linh.

5. Ngô Tấn tranh nhau Giao-Châu

Từ giờ Ngô lại tung hoành,
Đặt làm Giao, Quảng hai thành mới phân.
Tôn-Tư rồi lại Đặng-Tuân,
Lữ-Hưng, Dương-Tắc mấy lần đổi thay.
Đổng-Nguyên, Lưu-Tuấn đua tay,
Kẻ Ngô, người Tấn những ngày phân-tranh.
Đào-Hoàng nối dựng sứ-tinh,
Tân-xương, Cửu-đức, Vũ-bình lại chia.
Mười năm chuyên mặt phiên-ly,
Uy gia bốn cõi, ân thùy một châu.
Khi đi, dân đã nguyện-lưu ,
Khi già, thương khóc khác nào từ-thân.

6. Chính-sách nhà Tấn

Ngô-công nối dấu phương-trần ,
Hai mươi năm lẻ nhân-tuần cũng yên.
Dân tình cảm-kết đã bền,
Tước nhà Cố-Bật lại truyền Cố-Tham.
Dân tình khi đã chẳng kham,
Dẫu là Cố-Thọ muốn làm ai nghe.
Quận-phù lại thuộc Đào-Uy,
Rồi ra Đào-Thục, Đào-Tuy kế truyền.
Bốn đời tiết-việt cầm quyền,
Phiên-bình muôn dặm, trung hiền một môn.
Tham tàn những lũ Vương-Ôn,
Binh qua nối gót, nước non nhuộm trần.
Tấn sai đô-đốc tướng-quân,
Sĩ-Hành là kẻ danh thần chức cao.
Dẹp yên rồi lại về trào,
Uy-danh nào kém họ Đào thuở xưa.
Nguyễn-Phu tài trí có thừa,
Phá năm mươi lũy tảo-trừ giặc Man.

7. Họ Đỗ ba đời làm thứ-sử

Châu-diên lại có thổ-quan,
Đỗ-công tên Viện dẹp đoàn Cửu-chân.
Tướng-môn nối chức phiên thần,
Con là Tuệ-Độ thêm phần uy-danh.
Bổng riêng tán-cấp cùng-manh,
Cơm rau áo vải như hình kẻ quê.
Dâm-từ cấm thói ngu-mê,
Dựng nhà học-hiệu giảng bề minh-luân.
Ân-uy ra khắp xa gần,
Cửa thành đêm mở, gió xuân một trời.
Hoàng-Văn phủ-ngữ cũng tài,
Một nhà kế-tập ba đời tuần-lương.

8. Giao-châu loạn

Đến triều Lưu-Tống hưng vương,
Hòa-Chi, Nguyên-Cán sai sang hội đồng.
Đuổi Dương-Mai, giết Phù-Long,
Khải ca một khúc tấu công về trào.
Gió thu cuốn bức chinh-bào,
Y-thường một gánh, qui-thiều nhẹ không.
Từ khi vắng kẻ chiết-xung,
Tràng-Nhân, Lưu-Mục tranh hùng mấy phen.
Pháp-Thừa cũng chức tuần-tuyên,
Những chăm việc sách để quyền lại-ty.
Dưới màn có Phục-đăng-Chi,
Cướp quyền châu-mục, lộng uy triều-đình.
Tề suy, Nguyên-Khải tung hoành,
Hùng-phiên chiếm giữ cô-thành một phương.
Bắc triều đã thuộc về Lương,
Lại sai Lý Thốc chiêu hàng nẻo xa.
Giao-châu một giải sơn-hà,
Ái-Châu lại mới đặt ra từ rày.

Các tác phẩm khác

Thơ bên nhà mồ  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:01
Lượt xem 17062
Hàn Mạc Tử (1912-1940)

Từng phút - anh đến gần cửa huyệt
từng phút - anh tan vào cõi thiêng.

Người xứ thơ tiên  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:00
Lượt xem 22755
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938)

Chùa Hương không gặp gỡ
rừng mơ chắc đã mơ?
Lời còn trong hơi thở
giai nhân cùng người thơ.

Hỏi lối vào ca dao  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:59
Lượt xem 26356
Vũ Ngọc Phan (1912-1987)

Gặp đây mận mới hỏi đào
đường lên cổ tích, lối vào ca dao

Rau tần ai quẩy đi đâu  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:59
Lượt xem 14124
Trần Huyền Trân (1913-1989)

Ngỡ nàng công chúa họ Trần
hóa thi sĩ quẩy rau tần lãng du...

Ngơ ngác  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:58
Lượt xem 23847
Lưu Trọng Lư (1912-1991)

Từ lúc nào hỡi ngọn gió heo may
mang tâm sự thi nhân chưa tiện ngỏ
vàng trút xuống và cành sương nức nở
mặt đất hồi hộp lúc xạc xào thu.

Vầng trăng sống mòn  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:56
Lượt xem 15032
Nam Cao (1915-1951)

Trăng sáng tròn như vú mộng đầy
có vơi bớt cảnh sống mòn này?

Người viết thơ khỏa thân  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:51
Lượt xem 17095
Bých Khuê (1916-1946)

Câu thơ nhan sắc
chữ kết nên da ngà
hương trời đất bừng hoa
thi nhân hỡi tiếc chi vài mảnh vải?

Người say chưa tỉnh  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:50
Lượt xem 15831
Vũ Hoàng Chương (1916-1978)

Đâu chỉ cuộc say trong quỹ đạo
quay vòng muôn thuở các hành tinh
thi sĩ bao người say chếnh choáng
hư vô trong vũ trụ riêng mình.

Người tình khờ dại  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:48
Lượt xem 18212
Xuân Diệu (1916-1985)

Người phải lòng ư? Không đếm nổi
mang hương gửi gió, dại khờ chưa
nhặt phấn thông rơi làm của nả
phú quý đong bằng đấu mộng mơ.

Khúc bi tráng  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 15:47
Lượt xem 17138
Phạm Huy Thông (1916-1988)

Ngỡ họ gần nhau thật khó
dũng tướng và thi nhân
khát vọng nhổ núi, lay thành
khó tìm thấy trong vần thơ mỏng mảnh.

Hiển thị 491 - 500 tin trong 2295 kết quả