Đại Nam quốc sử diễn ca - X. Nhà Hậu Lý (1010 - 1225) - Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái - Thơ
 
                
	IV. Thời-kỳ phát-triển (Thế-kỷ 11 - đầu thế-kỷ 19)
	
	x. Nhà Hậu Lý (1010 - 1225)
	1. Lý-Thái-Tổ
	
	Bắc-giang trời mở thánh minh ,
	Lý-Công tên Uẩn nhân tình đới suy .
	Lê triều làm chức chỉ-huy,
	Lũ Đào-Cam-Mộc ứng kỳ phù lên.
	Đầu năm cải hiệu Thuận-Thiên,
	Thăng-Long mới đổi đặt tên kinh-thành.
	Định ra thuế lệ phân minh,
	Túc xa, quản giáp quân danh cũng tường.
	Hỗn dồng một mối phong cương ,
	Hai mươi bốn lộ các đường mới chia.
	Cử long sấm dậy binh uy ,
	Diễn-châu gió động tinh kỳ thân chinh .
	Biện loan gặp lúc hối minh ,
	Hương nguyền cảm cách, sóng kình cũng êm.
	Bốn phương trong trị, ngoài nghiêm,
	Chiêm-Thành, Chân-Lạp xa đem cung cầu .
	Ngựa man sang tiến Bắc triều,
	Tống hoàng ban thưởng quan-bào thêm vinh.
	Ví hay đạo học tinh minh ,
	Đế-vương sự-nghiệp nước mình ai hơn?
	Có sao tin hoặc dị đoan,
	Say vui đạo Phật lưu tiên cảnh chùa?
	Để cho dân tục tranh đua,
	Ni cô nối gót, tăng-đồ chen vai.
	Bởi vì sinh cửa Như-lai ,
	Tiêu-sơn từ thuở anh-hài mới ra.
	Sóng tình chìm nổi ái-hà ,
	Chín ngôi hoàng-hậu, phép nhà cũng sai.
	Tự mình đã dựng lệ-giai ,
	Khiến nên con cái, thêm bài tương-tranh .
	
	2. Lý-Thái-Tông bình Nùng, phục Chiêm
	
	Thái-Tông nối nghiệp thủ-thành,
	Anh em lại rắp đua giành ngôi cao.
	Cùng nhau binh mã sấn vào,
	Cấm-thành bỗng chốc xôn-xao chiến-trường.
	Trận tiền giết Vũ-đức-Vương,
	Đông-Chinh, Dực-Thánh tìm đường chạy xa.
	Khoan hình lại xuống chiếu tha,
	Thân phiên đã định, nước nhà mới yên.
	Ban hình luật, canh tịch-điền ,
	Mở đồ nhất thống cầm quyền tứ chinh .
	Mừng xem " Phiên phục, Nùng bình" ,
	Huy xưng có chữ rành rành biểu tiên .
	Vắn dài là số tự nhiên,
	Tụng kinh cầu thọ , khéo nên chuyện cười.
	
	3. Lý-Thánh-Tông, một ông vua nhân dũng
	
	Thánh-Tông văn học hơn đời,
	Bình Chiêm, đánh Tống, đủ tài kinh luân.
	Khuyến nông chăm việc cần-dân ,
	Chiếu chăn thương kẻ tù-nhân lạnh lùng.
	Thánh hiền tô tượng học cung ,
	Đặt khoa bác-sĩ, ưu dung đại-thần.
	Ân riêng mưa-móc đượm nhuần,
	Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng-liêm .
	Hồ tây vui thú Dâm-đàm ,
	Nỡ đem của nước xây làm cung tiên.
	Chuông Sùng-Khánh , tháp Báo-Thiên ,
	Phật vàng đúc tượng, say thiền lạ sao.
	
	4. Bà Ỷ-Lan nhiếp-chánh
	
	Nhân-Tông tuổi chửa là bao,
	Ngoài ra triều-yết , trong vào giảng minh .
	Thụ-di có Lý-Đạo-Thành,
	Ỷ-Lan hoàng-hậu buông mành giúp nên.
	Mở khoa bác-học cầu hiền ,
	Ba thăng một mẫu, thuế điền nhẹ thay!
	Có khi xem gặt, xem cầy,
	Lòng chăm điền-dã , một ngày mấy tao .
	Mưa ân ngấm khắp dồi-dào,
	Chuộc người bần-nữ gả vào quan-phu .
	
	5. Lý-Thường-Kiệt bại Chiêm, phá Tống
	
	Thân chinh xe ngựa trì khu ,
	Phá Sa-động bắt man tù Ngụy-Phang .
	Chiêm-Thành nộp đất xin hàng,
	Ba châu qui-phụ một đường thanh-di .
	Tống binh xâm nhiễu biên thùy,
	Tướng quân Thường-Kiệt dựng cờ Bắc chinh .
	Bên song Như-Nguyệt trú dinh ,
	Giang sơn dường có thần linh hộ-trì .
	Miếu tiền phảng phất ngâm thi,
	Như phân địa thế, như trì thiên binh .
	Bấy giờ Tống mới hư-kinh ,
	Giảng hòa lại trả mấy thành cố cương .
	Lại còn hối hận một chương:
	" Tham voi Giao-Chỉ, mất vàng Quảng-nguyên"
	Năm mươi năm lẻ lâu bền,
	Vũ công văn-đức rạng truyền sử xanh.
	Thượng-dương sao nỡ bạc tình,
	Để bà Dương-hậu một mình ngậm oan.
	Kìa Lê-văn-Thịnh mưu gian,
	Thương chi quái hổ mà khoan lưới hình!
	Phật từ như quả chứng minh ,
	Chuông chùa Diên Hựu đã thành phúc cai .
	Cớ sao Trừ quân lại thác vào người hoá duyên?
	
	6. Lý-Thần-Tông khuyến khích việc nông
	
	Thần-Tông sinh cửa Sùng hiền,
	Dấu hang thi-giải còn truyền Sài-sơn.
	Thức nồng nhộm vẻ chi-lan ,
	Thông-minh học-vấn kiêm toàn cả hai.
	Năm đầu vừa mới lên ngôi,
	Giảng cầu trước đã mở bài kinh-diên .
	Qui nông cho lính canh phiên,
	Rộng ân lại trả quan-điền cho dân.
	
	7. Đỗ-Anh-Vũ lộng quyền
	
	Anh-Tông còn thuở xung nhân ,
	Đỗ-Anh-Vũ lấy ngoại-thân lộng hành .
	Ra vào trong trướng, ngoài mành,
	Cùng Lê-Thái-Hậu có tình riêng chung.
	Tống giam đã bắt vào trong,
	Mà Lê-Hậu lại còn lòng đeo đai.
	Rượu cơm vẫn cứ đưa mời,
	Vàng cho ngục tốt liệu bài thoát ra.
	Nghị đồ rồi lại được tha,
	Để đoàn Vũ-Đái đều là thác oan.
	
	8. Tài kinh-quốc của Tô-Hiến-Thành
	
	Rồi ra vắng mặt quyền gian ,
	Hiến-Thành hết sức cán-toàn mới nên.
	Khi triều Tống, khi sính Nguyên ,
	Một niềm cung thuận , đôi bên được lòng.
	An-nam Tống mới cải phong ,
	Quốc danh từ ấy rạng dòng viêm-phương .
	Thành nam mở chốn võ-tràng ,
	Tập-tành cung ngựa phô trương tinh kỳ .
	Uy danh rậy đến biên thùy,
	Chiêm-thành, Ngưu-hống man di cũng bình.
	Tuần-du đã tỏ dân tình,
	Sơn xuyên trải khắp địa-hình gần xa.
	Trừ quân vì một ấu niên .
	Thác cô nhờ có tôi hiền,
	Dẫu người hối-chúc mà quyền chẳng sai.
	Cao-Tông ba tuổi nối đời,
	Hiến-Thành cư-nhiếp , trong ngoài đều yên.
	Di lưu còn muốn tán dương .
	
	9. Lý-Cao-Tổ thất-chính
	
	Tiếc không dùng kẻ trung tương ,
	Cao-Tông hoang túng mọi đường ai can?
	Dấu xe quanh khắp giang san,
	Chính mình lỗi tiết , du quan quá thường .
	Lại thêm thổ-mộc cung tường ,
	Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.
	Nhạc Chiêm rầu-rĩ khéo bầy,
	Những là tai-biến từ này hiện ra.
	Trâu đâu lên ngọn am-la ,
	Thước đâu làm tổ góc nhà Kính-thiên .
	Bốn phương trộm cướp nổi lên,
	Quân Chiêm, người Tống Quyền-cương ngày một đổi dời,
	Phạm-Du đã phản lại vời về kinh.
	Bỉnh-Di là kẻ trung-thành,
	Nghe dèm mà nỡ kim giai .
	Xe loan lánh chạy ra ngoài,
	Hoàng-thân đế thích mỗi người một phương.
	
	10. Họ Trần giúp vua Lý
	
	Trừ-quân đi đến Thiên-trường.
	Tình-cờ lại gặp một nường tiểu-thư.
	Con nhà Trần-Lý công ngư .
	Lưới chài nhưng cũng phong-tư khác thường.
	Trăng già đưa mối tơ vương,
	Mới hay con tạo mở đường di-duyên .
	Họ Trần từ ấy nổi lên.
	Kết bè thích-lý , dựng nền tiếm-giai .
	Trần-Tự-Khánh ở phương ngoài,
	Đem quân Hải-ấp vào nơi đô thành.
	
	11. Lý Huệ-Tông phát điên
	
	Huệ-tông gặp bước gập-ghềnh,
	Nhẹ ân mẫu-hậu , nặng tình phu-nhân .
	Lạng-châu xe đã Bắc-tuần ,
	Nửa đêm riêng với nàng Trần lẻn đi.
	Gặp quân Tự-khánh rước về,
	Đuơng cơn gió bụi bốn bề chưa êm.
	Huệ-tông cuồng-tật lại thêm.
	Khi ngày đứng múa khi đêm nằm dài.
	Xuất-gia lại muốn tu trai ,
	Ngôi-thiêng phó-thác cho người đào thơ .
	Đằng-sơn bóng nhật đã mờ,
	Hai trăm mười sáu Lý-cơ còn gì?"
	
	12. Lý Chiêu-Hoàng nhường ngôi cho chồng
	
	Chiêu-hoàng là phận nữ-nhi,
	Phấn son gánh việc gian-nguy được nào!
	Xây vần cơ-tạo khéo sao?
	Bỗng xui Trần-Cảnh hiện vào hầu trong.
	Người yểu-điệu, kẻ thư phong ,
	Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây ,
	Vẩy nước chậu, vắt khăn tay,
	Khi đêm đập bóng, khi ngày ngồi chung .
	Hoa đào đã dạn gió đông.
	Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên may.
	Chiếu rồng ban xuống năm mây .
	Mừng rằng nữ-chúa ngày nay có chồng.
Để vợ chơi nhăng - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đêm buồn - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đêm dài - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đi hát mất ô - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đi thi - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đi thi nói ngông - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đổi thi - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đùa bạn ở tù - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Đùa ông Hàn - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Gái buôn - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ
 
                Hiển thị 301 - 310 tin trong 2291 kết quả