Thơ

Đại Nam quốc sử diễn ca - XI. Nhà Trần (Thời kỳ thịnh trị: 1226-1340)  - Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái  - Thơ

08/01/2015 08:27
Lượt xem 36758

xi. Nhà Trần (Thời kỳ thịnh trị: 1226 - 1340)

1. Những việc cải cách đầu tiên

Đông-A tỏ mặt vừng hồng,
Thái-tông cải hiệu Kiến-trung rõ-ràng.
Trần-Thừa là Thái thượng-hoàng,
Chuyên quyền thính-đoán , gồm đường kinh-luân.
Soạn làm thông chế lễ-văn ,
Thuế điền đã định, số dân cũng-tường.
Tướng-thần mới đặt bình-chương ,
Huyện châu sai kẻ khoa-trường trị dân,
Bạ-đầu thi kẻ lại-nhân.
Hiệu-quân Tứ-thánh, Tứ-thần mới chia.
Hà phòng rày mới có đê,
Trăm quan áo mạo, dù xe thêm tường.
Việc ngoài đánh dẹp bốn phương,
Phó cho Thủ-Độ chuyên đường trị dân.

2. Văn-học và võ-công

Thượng-hoàng phút đã từ-trần,
Thái-tông tuổi mới đến tuần mười hai.
Cao-minh đã có tư trời ,
Lại thêm Thủ-Độ vẽ vời khôn-ngoan.
Sùng-văn , tô tượng Khổng, Nhan ,
Dựng nhà Quốc-học , đặt quan Giám-thần ,
Bảy năm một hội-thanh-vân ,
Anh-tài náo-nức dần dần mới ra.
Trạng-nguyên, bảng-nhỡn, thám-hoa,
Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái-học chư-sinh,
Lại thi tam-giáo chia rành ba khoa.
Thân-chinh trỏ ngọn thiên-qua ,
Chiêm nam, Nguyên bắc đều là dẹp tan.

3. Phong-tục đời Trần

Vì ai, đạt gánh giang-san?
Mà đem cố chúa gia oan nỡ nào!
Chiêu-hoàng duyên trước làm sao?
Gả đi bán lại , coi vào khó nghe!
Phép nhà chẳng sửa buồng the,
Vợ anh sao nỡ đem về hậu-cung
Bởi ai đầu mở hôn-phong,
Khiến nên một đạo khuê-phòng thẹn riêng!
Thuần-bôn dong thói ngửa-nghiêng,
Họ-đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì.
Thiên-Thành công-chúa vu-quy,
Sao Trần Quốc-Tuấn cướp đi cho đành?
Sính-nghi đem tiến thiên-đình
Thụy-bà lăng-líu, Trung-Thành ngẩn-gơ:
Dị-đoan mê-hoặc khôn chừa,
Chùa tô phật-tượng, đình thờ Thích-ca.
Tin lời phong-thủy khi tà,
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Lễ đâu yến-ẩm quá say,
Đội mo rót rượu, dan tay vui cười.
Ba mươi năm chán cuộc đời,
Truyền cho con nối, ra ngoài Bắc-cung.

4. Đức-độ và chánh-trị của Trần-Thánh-tông

Thánh-tông hiếu-hữu một dòng,
Sớm hôm chầu chực, mát nồng thảnh-thơi.
Anh em đệm cả gối dài,
Sân trong yến-lạc , cõi ngoài ấm-phong.
Một thiên truyền thụ phép lòng,
Di-mưu cho kẻ nối dòng ngày sau.
Văn-nho khuya sớm giảng-cầu,
Kẻ tu sử-ký, người chầu kinh-diên.
Bề ngoài nghiêm việc phòng biên,
Kén quân đoàn-luyện tập thuyền Cửu-sa.

5. Trần-Hưng-Đạo phá Mông-Cổ

Trao-truyền theo lối phép nhà,
Nhân-tông hùng-lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham-tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh-hành,
Sắc sai Hưng-Đạo tổng binh,
Với Trần-Quang-Khải các dinh tiến vào.
Chương-dương một trận phong-đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm-quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc, uy-phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ-tống binh thuyền lại sang.
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng-Đạo đã anh-hùng,
Mà Trần-Nhật-Duật kể công cũng nhiều.
Hoài-Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần-Bình-Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam-quỷ, không lòng Bắc-vương.
Khuyển-ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết-Kiêu, Dã-Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc-diệp kim-chi,
Lũ Trần-Ích-Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến-cố vội-vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng-hưng đem lại sơn-hà,
Đã hay thiên-tướng cũng là tài sinh.
Nước nhà khi ấy thanh-bình,
Truyền ngôi thái-tử, lánh mình Ngọa-vân.

6. Anh-tông và Minh-tông

Anh-Tông nối giữ nghiệp Trần,
Trong tu văn-đức, ngoài cần vũ-công.
Có châm để dạy Đông-cung.
Thủy-vân có tập vui cùng bút nghiên.
Ví không mến phật, say thiền,
Cũng nên một đứng vua hiền Đông-A.
Quyện-cần rồi lại xuất-gía,
Minh-tông kế-thống cũng là hiền-vương.
Mười lăm năm giữ phép thường,
Rạng nền nếp cũ, mở giường-mối sau.
Tiếc không biện-biệt ngư-châu
Để cho tà-nịnh ở đầu giai-ban.
Khắc-Chung thêm dệt lời gian,
Quốc-Chân mắc phải tiếng oan thiệt mình.

7. Việc đánh dẹp về đời Hiến-tông

Hiến-tông làm máy lung-linh,
Nghiêm xem tinh-độ vận-hành không sai.
Thạch-đê mới đắp đường dài,
Nước sông thuận lối về ngoài biển Đông.
Thừa bình lại hiếu vũ-công,
Đà-giang xa-mã, Nam-nhung tinh-kỳ
Cổ-quăng mấy kẻ truy-tùy,
Nhữ-Hài, Chiêu-Nghĩa đều về thủy-cung
Kiềm-châu có đá kỷ công,
Oán dày vẻ triện, sầu đông ngấn rều.

Các tác phẩm khác

Lý cầu dừa - Lấy chồng thi sĩ  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:38
Lượt xem 19852
Tôi về năn nỉ mẹ tôi
Cho tôi lấy được cái người tôi thương
Mẹ rằng con muốn lấy chồng
Tuổi còn thơ dại chồng con nổi gì

Thương cha  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:37
Lượt xem 16041
Mẹ hiền đã mất bao năm
Cha thường nhang khói viếng thăm mộ người
Sương nhòa dấu cỏ chiều đông
Dáng cha gầy yếu bên đường quạnh hiu

Tiếng vạc buồn  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:36
Lượt xem 16763
Trái tim em luân lưu dòng máu đỏ
Nuôi sống em nhưng cũng giết hồn em
Nghe quặn đau từ tâm khảm sâu thêm
Nghe buốt giá trên đôi tay gầy guộc

Tình gần yêu xa  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:35
Lượt xem 20537
Em cho anh một lời chào
Nghe bâng khuâng quá làm sao thế này
Con đường lắm lá me bay
Gió hôn từng sợi tóc dài trên vai

Tím trang thư  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:35
Lượt xem 19809
Ngày xưa mực tím thư tình
Trăm thư anh viết chỉ mình em thôi
Vần yêu chưa kịp ghép lời
Sao em nỡ vội xa rời mãi tôi

Bóng trăng in  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:34
Lượt xem 22649
Bức tranh em vẽ cho tôi
Cớ sao lại để gió lơi lả tình
Áo em nhuộm bóng trăng in
Tôi về trói lại trái tim của mình

Đời sẽ về đâu  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:33
Lượt xem 26241
Dưới cơn mưa tầm tả
Thương những mảnh đời không có ngày mai
Một em bé quỳ gối chắp hai tay
Lạy ông đi qua lạy bà đi lại rộng long bố thí

Tím cỏ may  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:32
Lượt xem 20467
Nhớ người áo tím cỏ may
Cùng tôi đi học những ngày xa xưa
Trời nắng chợt đổ cơn mưa
Hai tàu lá chuối che chưa ướt đầu

Bài thơ nhặt lá  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:31
Lượt xem 21179
Anh về nhặt lá làm thơ
Đêm khuya thao thức làm thơ tặng người
Những vần lục bát đơn sơ
Trên trang dĩ vãng xa vời vợi em

Hoa trăng  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:30
Lượt xem 11375
Một buổi chiều
Hai đứa mới quen nhau
Anh hỏi …em vụng về trả lời từng câu
Mình đã bắt đầu từ đấy

Hiển thị 1201 - 1210 tin trong 2290 kết quả