Thơ

Đại Nam quốc sử diễn ca - XVI. Nhà Lê Trung hưng (Vua Lê-Chúa Trịnh: 1593-1729)  - Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái  - Thơ

08/01/2015 08:07
Lượt xem 15986

xvi. Nhà Lê Trung hưng (Vua Lê-Chúa Trịnh: 1593 - 1729)

1. Giao-thiệp buổi đầu với Trung-hoa

Mới sai sứ-giả cầu phong,
Nghe gièm, Minh hãy còn lòng tin-nghi.
Sai quan hội-khám một kỳ,
Phong làm Đô-thống, cơ-mi gọi là!
Phùng-Khoan sứ-tiết cũng già,
Biểu-từ biện-chiết thật đà thiết-minh.
Mấy lời ôn-dụ đinh-ninh,
Phong vương còn đợi biểu-tinh có ngày.

2. Trịnh-Tùng xưng chúa

Hổ lui, lang tới khéo thay!
Mạc kia vừa dẹp, Trịnh nầy lại lên.
Tùng xem căn-cứ đã bền,
Công-danh càng thịnh, uy-quyền càng cao.
Rỡ-ràng ngọc-sách, tinh-bao,
Gia-phong Nguyên-súy, dự vào sủng-chương
Bình-an lại tiến tước vương,
Gầy nên tiếm-thiết, mở đường khải-du.
Kính-Tông còn độ ấu-cô,
Đống-lương ai kẻ xanh-phù vạc Lê?
Triều-thần những lũ Bùi-Khuê,
Lại tìm Mạc-nghiệt theo về Kính-Cung.
Nghi-dương tro tắt lại nồng,
Thị-thành nổi áng bụi hồng bởi ai?
Nhân khi giá-ngự ra ngoài,
Thừa hư Mạc lại vào nơi đô-thành.
Quan-quân ra đánh lại bình,
Thặng-dư mới phát tự Thanh ngự về.
Chông gai tuy sạch mọi bề,
Mà trong quyền cả chuyên về một tay.
Bốn phương tai-biến đã đầy,
Đầm khô, núi lở, cát bay mù trời
Chẳng qua trăm sự tại người,
Gẫm cơ hưu-cữu biết đời thịnh-suy.
Súng đâu phục trước đường đi,
Để cho Trịnh-chúa lại nghi Lê-hoàng.
Sinh con gặp đứa vô-lương,
Châu-liên sao nỡ quên đường quân-thân?

3. Trịnh-Tráng tăng quyền phủ chúa

Thừa gia theo lối cường-thần,
Vua Lê, chúa Trịnh nhân-tuần đã quen,
Thần-tông vừa mới cải-nguyên,
Sách-phong Trịnh-Tráng đã ban từ giờ.
Thành-đô quyền trọng hơn xưa,
Nhà Lê cũng một giải thừa mà thôi!
Nước nhà đang buổi yên vui,
Xin vua xuống chiếu truyền ngôi nhẽ gì?
Chẳng qua là dạ gian-khi,
Làm cho rõ mặt phúc-uy tự nhà.
Chân-Tông tuổi mới mười ba,
Hững-hờ quyền chúa, ngôi cha mặc lòng.
Quốc-vương Minh mới cải-phong,
Bảy năm lịch-số vừa chung một đời
Xoay quanh mới tỏ đạo trời,
Báu thiêng đem lại cho người truyền gia
Thần-tông thay giữ nghiệp nhà,
Thượng-hoàng lại đổi mặt ra tân-hoàng.
Thờ-ơ cờ đạo nhà vàng,
Chính-quyền phó mặc Trịnh-vương, biết gì.
Nhà Minh thuở ấy đã suy,
Mượn binh lại sắp nhờ uy cường-thần.
Sắc phong chiếu-dụ ân-cần,
Phó-vương Trịnh lại thêm phần tôn-vinh.
Cả giầu sang, lớn quyền-hành,
Giang-sơn chung một triều-đình chia đôi.

4. Trịnh-Tạc đánh Nguyễn và Mạc

Tiếm phong, Trịnh-Tạc nối ngôi,
Tước vương mình lại tài-bồi cho con.
Càn-cương ngày một suy-mòn,
Cuộc đời chìm nổi, ai còn hiệu-trung,
Bản-triều mở dấu Kỳ-phong,
Thánh-thần truyền dõi một lòng tôn Lê.
Quyền-gian giận Trịnh nhiều bề,
Sắc sai Chiêu, Thuận khắc-kỳ tiến-chinh.
Sáu năm rồi mới bãi-binh,
Lũy dài còn dấu uy-linh để truyền.
Vận Lê còn buổi truân-chuyên,
Huyền-tông thơ ấu để quyền Tây-vương.
Đẳng-uy đã biến lễ-thường,
Vào chầu không lạy, miếu-đường có ai?
Thiên-nhan lại muốn sánh vai,
Giường ngồi đem đặt bên nơi ngự-tiền.
Dọc ngang dưới phủ trên đền,
Mống tình cải-bộ gây nền tranh-vương.
Vũ-công lại muốn phấn-dương,
Đem quân đánh Mạc lại sang Cao-bình.
Mạc vào cầu-viện Yên-kinh,
Phong làm Đô-thống tung-hoành cõi xa.
Bốn châu riêng một sơn-hà,
Danh tuy phụ Hán, thực là thê Ngô.
Gia-tông vừa nối cơ-đồ,
Xe loan đã giục trì-khu ra ngoài.
Phòng-biên đã có tướng tài,
Quân ta một trận, lũy dài phá tan,
Mã-đầu đã trở quy-an,
Hà-trung Trịnh lại đặt quan lưu-đồn.

5. Trịnh-Căn và nhà Thanh

Về nhà lập lại Trịnh-Côn (Căn)
Nam-vương theo lối quyền-môn một dòng.
Đêm ngày bí-các thong-dong,
Văn-thần thay đổi vào trong chực hầu,
Quốc-Trinh tham-tụng ở đầu,
Bởi sao nên nỗi gây thù ưu-binh?
Hy-tông hoàng-đệ thay anh,
Ngôi không luống giữ, quyền hành mặc ai!
Bấy lâu chiếm giữ cõi ngoài,
Hãy còn Mạc-nghiệt mấy đời đến nay.
Di-thư sang với Quảng-tây,
Một lần hội-tiễu từ này chạy xa.
Quân Thanh xâm chiếm đất ta,
Vị-xuyên, Bảo-lạc, Nà-oa, Lộc-bình.
Thổ-quan lại có tư-tình,
Tham vàng đem giới-kệ chuyển-di.

6. Triều thần nhà Lê

Bên ngoài xâm-tước nhiều bề,
Ở trong chính-sự chỉnh-tề được bao?
Lễ gì hơn lễ bang-giao,
Mà cho quan thị đứng vào đầu ban.
Thế mà những kẻ cư-quan,
Cũng đành ngoảnh mặt cho toàn tôn-vinh.
Tại triều mấy kẻ trâm-anh,
Nguyễn-Đang, Đồng-Trạch công-thanh một đường.
Thế-Vinh tài học ưu-trường,
Nguyễn-Hành, Hà-Mục văn-chương cũng già.
Bởi ai thiên-hạ âu-ca,
Chẳng quan tham-tụng Vãn-hà là chi?
Bởi ai thiên-hạ sầu-bi,
Chẳng quan tham-tụng Lê-Hy hãnh-thần?
Tính đi nghĩ lại xa gần,
Nhiều phần vì Trịnh, ít phần vì Lê.
Mồi giầu sang đã say mê,
Lấy ai chỉ-trụ làm bia trong đời!

7. Những việc cải-cách về thời Trịnh-Cương

Dụ-tông nối giữ ngôi trời,
Trịnh Cương chuyên chế theo loài cố-gia
Lục-phiên lại đặt tư-nha,
Bao nhiêu tài-phú đều là về tay.
Các quan trấn-thủ mới thay,
Hưng Tuyên thống-hạt từ rầy chia hai.
Vũ-thần mỗi trấn một người,
Để cho vững thế mặt ngoài phiên-ly.
Lấy năm điều khảo trấn-ti,
Cứ trong điến-tối mà suy hay hèn.
Thẩm hình đặt viện phủ-tiền,
Sai quan tra kiện thay quyền pháp-ti.
Vũ-khoa mới đặt phép thi,
Hỏi đường thao-lược, thử nghề dao-cung.
Ba trường phúc-thí đã xong,
Đề danh tạo-sĩ bảng rồng cũng vinh.
Kén thêm tứ-trấn binh đinh,
Vệ-quân mới đặt sáu dinh từ rầy.
Công-tư điền-thổ xưa nay,
Sai quân khám-đạc san tay dân cùng
Tuần-hành có sứ khuyến-nông.
Giữ-gìn đê-lộ, xét trong dân-tình.
Đem thư biện với nhà Thanh,
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về ta.
Lập bia trên Đổ-chú-hà,
Giới-cương tự đó mới là phân-minh.
Qui-mô cũng muốn sức bình,
Mà lòng lăng-tiếm tự mình ra chi?
Lập phủ-đường ở Cổ-bi,
Toan đem kinh-quốc dời về cố-hương
Đông-cung đã lập Duy-Tường,
Bỗng không lại đổi Duy-Phường cớ sao?

Các tác phẩm khác

Chốn quê  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:20
Lượt xem 11136
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò.

Thu vịnh  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:19
Lượt xem 19121
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc ánh trăng vào.

Sơn trà (tạ lại người cho trà)  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:18
Lượt xem 18313
Xuân lai khách tặng ngã sơn trà,
Túy lý mông lung bất biện hoa
Bạch phát thương nhan ngô lão hỉ,
Hồng bào kim đái tử chân da ?

Câu đối tết  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:16
Lượt xem 22038
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết Uớc gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân

Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà

Trở về vườn cũ  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:16
Lượt xem 22484
Vườn Bùi chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây
Trông ngoài sân đưa nở mấy chồi cây
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế

Uống rượu ở vườn Bùi  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:15
Lượt xem 15752
Túy Ông ý chẳng say về rượu
Say vì đâu, nước thẳm với non cao
Non lặng ngắt, nước tuôn ào
Tôi với bác xưa nay cùng thích thế

Về nghỉ nhà  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:14
Lượt xem 24711
Tóc bạc, lòng son chửa dám già
Ơn vua nhờ được nghỉ về nhà
Nước non cây cỏ còn như cũ
Ghế gậy cân đai thế cũng là

Nghe hát đêm khuya  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:12
Lượt xem 10511
Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy
Nửa chen mặt nước, nửa từng mây
Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước
Ngán kẻ phương trời chẳng dứt dây

Chế ông đồ Cự Lộc  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:10
Lượt xem 11465
Văn hay chữ tốt ra tuồng
Văn dai như chão, chữ vuông như hòm
Vẻ thấy như vẻ con tôm
Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương

Mừng con dựng được nhà  - Nguyễn Khuyến - Thơ

18/12/2014 21:10
Lượt xem 6016
Nghĩ ta, ta cũng sướng ru mà
Mừng thấy con ta dựng được nhà
Năm mới lệ thường thêm tuổi một
Cỗ phe ngôi đã chốc bàn ba

Hiển thị 971 - 980 tin trong 2285 kết quả