Thơ

Đại Nam quốc sử diễn ca - XVIII. Cuối đời nhà Lê (1783-1786)  - Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái  - Thơ

08/01/2015 07:55
Lượt xem 25306

xviii. Cuối đời nhà Lê (1783 - 1786)

1. Loạn kiêu-binh ở kinh-thành

Sâm già, Cán lại thiếu-niên
Phó cho Hoàng-Bảo giúp nên sao đành?
Tuyên-phi học thói buông mành,
Trong dưa dưới mận nhân-tình đều nghi.
Ở trong Khải mới thừa ky,
Ngoài quân ba phủ nhân khi lộng-hành
Cùng nhau sáp-huyết hội-minh,
Trống hồi chửa dứt, các dinh đã vào.
Cửa thành binh-lửa xôn-xao,
Một cơn cỏ nội cá ao còn gì!
Cán vong, Khải lại tiếm-vì,
Phủ-binh từ ấy nhiều bề tuyên-kiêu,
Hung-hăng ngoài phố trong triều,
Phá nhà cướp của, dập-dìu vào ra.
Đầy đường những tiếng oán-ta,
Văn-thần, võ-tướng đều là bó tay.

2. Nguyễn-Huệ ra Bắc lần thứ nhất

Tiến đồn nghe đến giặc Tây,
Tiềm-mưu còn rắp đợi ngày xuất-chinh.
Có tên Nguyễn-Chỉnh tài-danh,
Nhân khi tao-loạn đem mình hàng Tây.
Cơ-quan mưu-lược vẽ bầy,
Cam lòng nước cũ, mượn tay người ngoài.
Tây-sơn biết tỏ một hai,
Chia quân thủy-bộ quyết bài kéo ra.
Ngọn cờ trổ lối sơn-pha,
Hải-vân đồn-trấn, đâu là chẳng tan?
Cánh buồm đè lớp cuồng-lan,
Cát-dinh, Động-hải quân-quan chạy dài.
Ngụy Tây còn sợ mặt ngoài,
Rắp ngăn Tràng-lũy tính bài phân-vương
Khéo đâu Chỉnh lại đưa đường,
Rằng: " Trong sự thế chi nhường cho ai?
Tướng-công uy nhức bên trời,
Này cơ phát trúc hẳn mười chẳng xa.
Bấy lâu họ Trịnh gian-tà,
Binh kiêu, dân oán ắt là bại vong.
Uy trời ai giám tranh-phong,
Hãy xin thừa thắng ruổi giong cõi ngoài."
Phải chăng Huệ mới nghe lời,
Lại cho Nguyễn-Chỉnh, lĩnh bài tiên-phong.
Lá buồm theo ngọn gió đông,
Vượt qua cửa bể vào sông Vị-Hoàng.
Quân-dung, đâu mới lạ nhường!
Mão mao, áo đỏ chật đường kéo ra.

3. Chúa Trịnh-Khải bị bắt

Bụi hồng mờ-mịt kinh-hoa,
Lục-môn, Thúy-ái gần xa tan-tành.
Quyết liều Trịnh mới thân-chinh,
Tây-luông giáp trận quân mình đảo qua
Nài voi toan trở lại nhà,
Cờ Tây-sơn đã mở ra đầy thành.
Qua Hạ-lôi rắp lánh mình.
Giữa đường gặp đứa phụ tình bắt ra.

4. Nguyễn-Huệ trả quyền Lê-Hiển-tông

Ngụy Tây vốn kẻ hung-tà,
Còn e người chốn Bắc-hà khó xong.
Phù Lê có biểu mật-phong,
Mặt ngoài trung-nghĩa, trong lòng gian-phi.
Hiển-tông tuổi tác đã suy,
Nghe tin binh-biến biết gì là đâu.
Vừa khi Nguyễn-Huệ vào hầu,
Vấn-an lại kể gót đầu đinh-ninh.
Rằng: " Nghe họ Trịnh cường-hoành,
Vậy đem quân nghĩa quét thanh bụi-trần.
Chủ-trương mừng thấy đông-quân.
Thái-bình cây cỏ được nhuần hơi mưa."
Phúc lành chúc chữ cửu-như.
Của tin mấy quyển đồ-thư dâng vào,
Bệ rồng ban chiếu tinh-bao,
Gia phong Nguyễn-Huệ đương trào quốc-công.
Ngọc-Hân vừa trạc đào hồng,
Ép duyên kim-cải kết lòng sài-lang,
Đương cơn đòng bác ngổn ngang,
Thực-hư chưa tỏ, biến-thường ai tin.
Hơi tàn gần trở gót tiên,
Lại vời Nguyễn-Huệ gửi quyền quốc-gia.
Một hai xin trở về nhà,
Bóng đèn, tiếng búa giám là di-duyên.

5. Quân Tây-sơn rút về Nam

Bảo-thành kinh-lý đã yên,
Ngôi-cao phó lại cháu hiền thừa-gia.
Duy-Kỳ nối giữ nghiệp nhà.
Cải nguyên Chiêu-thống mới là sơ-niên.
Huệ còn lưu ở Long-biên,
Anh là Nguyễn-Nhạc theo miền lại ra.
Rước mời ngày tiếp đôi ba,
Bệ-từ, Nhạc mới lân-la tự-tình
" Đất, dân đâu cũng triều-đình,
Giao lân rồi sẽ cất mình Nam-qui."
Nửa đêm ám-hiệu cuốn kỳ
Bao nhiêu tài-hóa chuyên về sạch không.
Bỏ Nguyễn-Chỉnh ở Thăng-long.
Cũng toan cắt cánh mở lồng với ai.
Về quê Chỉnh mới giả bài,
Rằng vâng mật-chỉ hồi-sai đất nhà.
Mộ quân hương-dõng đem ra,
Ngoài là chống giặc, trong là giữ kinh.

6. Triều-đình vua Lê-Chiêu-Thống

Cựu-thần mấy kẻ công-khanh,
Thoái-hưu để việc miếu-đình mặc ai?
Tân-khoa còn có một hai,
Bùi-Dương, Trần-Án cũng người trung-trinh.
Cùng nhau phụng sắc triệu-binh,
Thổ-hào củ-tập vào kinh hộ-tùy.
Phân-vân tranh-lập nhiều bề,
Kẻ phò Trịnh-Lệ, người suy Trịnh-Bồng.
Yến-đô lại cứ tập-phong,
Những mưu phò Trịnh, quên lòng tôn Lê.
Mậu-Xưng, Tích-Nhưỡng kể chi,
Phùng-Cơ còn biết thị-phi nhẽ thương,
Trách thay Trọng-Tế họ Dương,
Cũng trong khoa-bảng, cùng phường đai-cân
Sao không biết nghĩa quân-thần
Bầy mưu phế-lập sắp quân vây thành.
Non sông còn mặt triều-đình,
Bạc đen xem thấy nhân-tình mà ghê.

7. Nguyễn-Hữu-Chỉnh chuyên-quyền

Lê-hoàng căm giận nhiều bề,
Mật-thư sai sứ đưa về Nghệ-an.
Chỉnh xưa tuy giả mưu-gian,
Được thư rầy mới nở gan anh-hùng.
Hịch bay đâu cũng nức lòng,
Tứ-thành Tứ-đột quân ròng hơn muôn,
Dặm trường thẳng ruổi chinh-an
Nghệ, Thanh quét sạch mấy đoàn kiến ong,
Yến-đô sức yếu thế cùng,
Theo Dương Trọng-Tế qua vùng Bắc-ninh.
Đại-quân tiến đến kinh-thành,
Long-tân ngự-duyệt, đại-đình thưởng-công.
Loan-thư ban trước thềm rồng
Cha phong Bằng-quận, con phong tước hầu.
Trăm quan ngôi thứ ở đầu,
Cánh vây sum-họp, phủ-lầu nghênh ngang.

Các tác phẩm khác

Tiểu sử  - Quang Dũng - Thơ

20/12/2014 18:32
Lượt xem 24332
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội). Năm 1947, đại đôi trưởng đoàn quân Tây tiến.

Trắc ẩn  - Quang Dũng - Thơ

20/12/2014 18:30
Lượt xem 28378
Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau ?
Đòi phen số mệnh cũng cơ cầu
Người đi mang nửa hồn đơn lẻ
Tôi về hoài vọng một đôi câu

Trông bạn  - Quang Dũng - Thơ

20/12/2014 18:30
Lượt xem 24886
Nhà anh chân núi đá
Tre xanh ven lối vườn
Mẹ già đọc sách cổ
Quí người mấy ai hơn

Ánh sao khuê  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:40
Lượt xem 33257
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)

ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Lê Thánh Tôn

Ba họ - bao nhiêu người?
Bao đầu rụng tru di buổi ấy?
Dòng thơ - dòng máu chảy
Sáu thế kỷ rồi đâu dễ vơi.

Lời thơ - lời sấm  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:38
Lượt xem 21442
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

Biển xanh thành nương dâu
thơ báo trước việc đời năm thế kỷ
thiên chức nhà thơ với cõi trần đến thế
hành tinh này còn có ở nơi đâu?

Đá vọng phu  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:37
Lượt xem 30242
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748)

Mỗi chinh phụ, một câu thơ hóa đá
hồn vọng phu còn tỏa khói sương
trăm năm hào kiệt phi xương
lệ rơi thấm giấy dễ thường chưa khô!

Mảnh tình riêng ấy  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:37
Lượt xem 24536
Bà Huyện Thanh Quan (1755-...)

Đi giữa nước nhà còn nhớ nước
phải đâu khắc khoải cuốc kêu trăng!
Thì ra chả cứ là xa khuất
khi mình lại nhớ chính mình chăng?

Mượn sóng Tiền Đường  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:36
Lượt xem 22624
Nguyễn Du (1765 - 1810)

Quê nhà nào thiếu gì sông nước
chẳng thiếu dòng sâu máu cuộn ngầu
sao không là sông Lam, sông Hương
sông nước mắt phải mượn Tiền Đường gửi nỗi đau!

Tuần rằm  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:35
Lượt xem 18838
xin nhớ kiêng thơ chị...
Hồ Xuân Hương (1768- ...?)

Thiếu nữ ngủ ngày quên chốt cửa
bao nhiêu quân tử bước dùng dằng
hữu hình ba góc, vô hình gió
mát mặt anh hùng đến thế chăng ?

Công chúa Ai Tư  - Nguyễn Vũ Tiềm - Thơ

20/12/2014 16:33
Lượt xem 26346
Lê Ngọc Hân (1770-1799)

Tài hoa cung cấm gập ghềnh
long đong gấm lụa, lênh đênh kiệu vàng
trông vời một chiếc thuyền nan
cảm thương quê mẹ chưa lần về thăm.

Hiển thị 451 - 460 tin trong 2283 kết quả