Thơ

Đặng Thai Mai (1902-1984) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

22/12/2014 10:44
Lượt xem 21628

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Đặng Thai Mai (1902-1984), còn được biết đến dưới tên gọi Đặng Thái Mai và những bút danh Thanh Tuyền, Thanh Bình. Ông là giáo sư, nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học Việt Nam; và nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học Việt Nam.

Tiểu sử

Đặng Thai Mai sinh ngày 25 tháng 12 năm 1902 tại làng Lương Điền (nay là Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nho học. Thân phụ ông là Đặng Nguyên Cẩn, đỗ phó bảng, tham gia phong trào Duy Tân cùng với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, bị thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo. Ông là hậu duệ của Tể tướng Đặng Dung, thuộc chi Tiến sĩ Đặng công Thiếp. [1]

Sau khi thân phụ bị bắt, ông về sống tại quê nội từ năm 6 tuổi, và được bà nội nuôi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước, học chữ Hán và chữ Quốc ngữ theo chương trình Đông Kinh nghĩa thục.

Năm 1925, khi đang theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương - Hà Nội, ông tham gia phong trào đòi "ân xá" Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, đồng thời gia nhập đảng Tân Việt.

Năm 1928, ông trở thành giáo sư Trường Quốc học Huế. Năm 1929, khi đảng Tân Việt tan vỡ, ông bị xử một năm tù treo, sau đó lại trở về dạy học ở Huế. Ông lại bị bắt năm 1930 và bị xử 3 năm vì tham gia phong trào Cứu tế đỏ. Sau khi ra tù, Đặng Thai Mai ra Hà Nội sống và dạy học tại trường tư Gia Long (1932).

Đến năm 1935, Đặng Thai Mai cùng với các bạn là Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp... lập ra Trường tư thục Thăng Long. Năm 1936, ông cùng Nguyễn Văn Tố, Vương Kiêm Toàn, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp... thành lập ra Hội truyền bá chữ Quốc ngữ.

Ông bắt đầu hoạt động văn hóa thời kì Mặt trận Dân chủ (1936-1939), viết báo và sáng tác một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp nêu gương các chiến sĩ cách mạng buổi đầu (Cô câm đã lên tiếng,Chú bé...).

Năm 1939, ông ứng cử Viện dân biểu Trung Kỳ. Năm 1944, ông cho ra đời tác phẩm Văn học khái luận - cuốn sách đầu tiên trình bày có hệ thống nhiều vấn đề lí luận văn học theo quan điểm tiến bộ, như điển hình và cá tính, nội dung và hình thức, truyền thống và hiện đại. Đặng Thai Mai cũng là người có công giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc qua các công trình Lỗ Tấn (1944), Tạp văn Trung Quốc (1944), các bản dịch kịch Lôi Vũ, Nhật xuất của Tào Ngu, Lịch sử văn học Trung Quốc hiện đại, tập 1 (viết năm 1958).

Sau Cách mạng tháng Tám, ông giảng dạy ở bậc đại học và nghiên cứu phê bình văn học. Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I, Ủy viên Ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1946 [1]. Cũng trong năm này, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Trong các giai đoạn về sau, ông lần lượt giữ các chức vụ về văn hoá và giáo dục như Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa, Hội trưởng Hội văn hóa Việt Nam, Giám đốc Trường dự bị đại học và Sư phạm cao cấp Liên khu IV, Giám đốc trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị như Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20 (1960), Trên đường học tập và nghiên cứu (tập 1, 1959, tập 2, 1965 và tập 3, 1973).

Đặng Thai Mai có vốn nho học uyên thâm và am hiểu văn học cổ điển Pháp, văn học hiện đại Trung Quốc, văn học cận đại Việt Nam. Đặng Thai Mai là nhà lí luận phê bình sắc sảo. Năm 1982, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 1996, ông lại được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I) về các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới.[2]

Đặng Thai Mai mất ngày 25 tháng 9 năm 1984. Nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Mai Dịch

Tác phẩm

Gia đình

Đặng Thai Mai lập gia đình với bà Hồ Thị Toan. Hai ông bà có 5 con gái và 1 con trai, trong đó 3 con rể là tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam

chú thích

Các tác phẩm khác

Điệu lý xàng xê  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:24
Lượt xem 12386
Ngồi buồn nhớ lý xàng xê
Ngọt ngào câu hát tình quê đậm đà
Lạc bầy con sáo dặm xa
Cống hò điệu lý ngân nga tìm về

Biển và quê hương  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:23
Lượt xem 17391
Quê hương ơi có còn chùm khế ngọt
Hàng dừa xanh nghiêng bóng dưới chân cầu
Bờ chuối nào gọi gió tiếng lao xao
Giậu mồng tơi bên rào còn tím thẩm

Yêu như....là yêu  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:22
Lượt xem 20903
Em nhớ mãi ngày đầu tiên gặp gỡ
Anh khẽ chào làm loạn nhịp tim em
Ánh mắt anh sao tha thiết êm đềm
Nghe chớm nở li ti màu hoa nắng

Áo tím ngày xưa  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:21
Lượt xem 23139
Đêm mưa lạnh buồn
Trên căn gác trọ
Giăng giăng đầu ngõ
Phố vắng im lìm

Thơ gởi em gái Sài-gòn  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:20
Lượt xem 17480
Anh đoán biết em không là gái Huế
Bờ tóc dài nhưng không nón bài thơ
Cầu Trường Tiền còn đang đứng lơ ngơ
Nhìn sông Hương con nước chiều trôi chậm

Chiếc nón bài thơ  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:19
Lượt xem 20511
O mần chi đứng bên bờ sông vắng
Tóc O dài tha thướt trong gió bay
Có phải là O đang đứng chờ ai
Đôi mắt O sao mà tha thiết quá

Bụi pha lê  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:18
Lượt xem 28272
Một đêm mưa trút từng cơn
Nghe rưng rứt một nỗi buồn không tên
Pha lê phủ hạt bụi chìm
Một đêm hai đứa chúng mình.....yêu nhau

Bông cỏ may  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:17
Lượt xem 24660
Mơ màng giấc ngủ đêm qua
Tôi như trở lại những ngày xa xưa
Sau hè tàu chuối che mưa
Tôi em hai đứa cũng vừa mới quen

Nắng nhớ mưa quên  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:16
Lượt xem 23312
Không là một nửa tình yêu
Mưa nào nỗi nhớ nắng chiều rơi xa
Một mình yêu cũng chỉ là
Nỗi buồn đâu thể chia ra mà buồn

Từ em dạo ấy  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:15
Lượt xem 28847
Tôi không giữ được trái tim
Từ em dạo ấy đi tìm cuộc vui
Còn đâu nữa những ngọt bùi
Nửa vầng trăng sáng cho người trao duyên

Hiển thị 1081 - 1090 tin trong 2154 kết quả