Thơ

Di chúc (1)  - Nguyễn Khuyến  - Thơ

18/12/2014 20:21
Lượt xem 16346

Kém hai tuổi xuân đầy chín chục.
Số thầy sinh phải lúc dương cùng. (2)
Đức thầy đã mỏng mòng mong,
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy.
Học chẳng có rằng hay chi cả.
Cưỡi đầu người kể đã ba phen; (3)
Tuổi là tuổi của gia tiên,
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.
ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ, (4)
Hóa bây giờ cho bố làm nên;
Ơn vua chửa chút báo đền,
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
Sống không để tiếng đời ta thán,
Chết được về quê quán hương thôn;
Mới hay trăm sự vuông tròn,
Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì?
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thời thôi;
Cỗ đừng to lắm con ơi,
Hễ ai chạy lại, con mời người ăn.
Tế đừng có viết văn mà đọc,
Trướng đối đừng gấm vóc làm chi;
Minh tinh (5) con cũng bỏ đi,
Mời quan đề chủ (6) con thì không nên.
Môn sinh (7) chớ bổ tiền đặt giấy,
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi;
Khách quen chớ viết thiếp mời.
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu.
Chẳng qua nợ để cho người sống,
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu!
Lại mang cái tiếng to đầu,
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn.
Cờ biển của vua ban ngày trước,
Khi đưa thầy con rước đầu tiên;
Lại thuê một lũ phường kèn,
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng.
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt,
Cúng cho thầy một ít rượu hoa;
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu".

1. Theo ý kiến một số cụ già ở địa phương nhà thơ, thì bài này là do cụ Trần Tán Bính dịch trong buổi lễ đưa ma cụ Nguyễn Khuyến.
2. Dương cùng: ý nói nhà thơ đã đến ngày tận số.
3. ý nói: nhà thơ qua ba kì thi đều đỗ đầu bảng (tam nguyên).
4. Ông cụ thân sinh nhà thơ thuở trước cũng là chân học khoa cử, nhưng không đỗ đạt cao.
5. Minh tinh: một mảnh lụa, mảnh vải hoặc mảnh giấy đề tên hiệu, tên thụy, tuổi và chức tước, địa vị người chết trong khi đưa đám ma.
6. Đề chủ: viết tên và hiệu người chết vào. Việc viết này thường được coi là tôn trọng, nên phải mời người có chức tước làm.
7. Môn sinh: học trò cùng học một thầy.

Các tác phẩm khác

Nụ hôn chiếc lá  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:15
Lượt xem 14165
Ngày xưa mới tập làm thơ
Bầu trời có lắm giấc mơ học trò
Bước chân giẫm lá vàng khô
Cỏ tranh lụa đẹp mọc vô sân trường

Tiếng mưa đêm  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:14
Lượt xem 24420
Những hạt mưa rơi xuống
Trắng cả một trời thơ
Nhìn mưa anh lại nhớ
Thuở tình còn ban sơ

Lý nhãn lồng  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:14
Lượt xem 29921
Tôi chưa ăn trái nhãn lồng
Em không tìm được giậu mồng tơi xưa
Ai người gánh nắng cùng mưa
Lạc con bướm trắng chiều lưa thưa buồn

Đôi mắt người xưa  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:13
Lượt xem 11899
Em buồn đứng cuối sân ga
Nhìn theo chiếc bóng tàu xa xa dần
Đôi con mắt ướt long lanh
Phải chăng là của một lần tiễn đưa

Tiếng tắc kè gọi bậu  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:12
Lượt xem 13612
Bậu đi rồi bao giờ bậu trở lại
Bờ ao xưa vẫn canh cánh mong chờ
Con tắc kè tặc lưỡi cứ ngẩn ngơ
Trên cây khế như buông lời than trách

Lạc bước  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:11
Lượt xem 24011
Xin đừng nhớ núi và sông
Vì bao giờ đã chạnh lòng nước non
Làm sao đi nhặt ánh hồng
Mặt trời nào có mà trông nắng về

Thương nhớ mẹ hiền  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:09
Lượt xem 28406
Từ đây con mất mẹ rồi
Hương lòng một nén nghìn đời cácg xa
Người ta có mẹ có cha
Mà sao con mẹ bỗng là mồ côi

Nỗi buồn con cuốn chiếu  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:09
Lượt xem 19996
Xòe tay thấy một quê hương
Sợ mưa đêm ướt đường cong lối về
Vỡ trong tiềm thức mà nghe
Nhạt môi cơm áo lời thề nước non

Mưa rơi phố nhỏ  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:08
Lượt xem 25064
Mưa rơi trên phố nhỏ
Giọt mưa rớt vội vàng
Mây mù che giăng lối
Chuông giáo đường vang vang

Với những mùa thu  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 22:07
Lượt xem 22421
Em hỡi còn đâu ngày tháng cũ
Những mùa thu trước những mùa thu
Ai khắc lên tim màu tan vỡ
Mà lòng thì vẫn sao cứ như

Hiển thị 241 - 250 tin trong 1257 kết quả