Thơ

Dương Khuê (1839-1902) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

28/12/2014 14:21
Lượt xem 25843

nguồn : http://vi.wikipedia.org

xem thêm  : tác phẩm

Dương Khuê (楊奎, 1839-1902), tự: Giới Nhu, hiệu Vân Trì; là quan nhà Nguyễn, và là nhà thơ Việt Namthế kỷ 19.

Thân thế và sự nghiệp

Dương Khuê là người ở làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội).

Xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Ông là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm [1].

Nhờ chuyên cần, Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, ông đỗ Cử nhân (cùng khoa này có Nguyễn Khuyến đỗ Giải nguyên); nhưng vào kinh thi Hội, thì bị hỏng khoa đầu. Được Tùng Thiện Vương mời về nhà dạy con cháu học, ông nán lại chờ khoa thi sau. Năm Mậu Thìn (1868), thời vua Tự Đức, ông dự thi Đình đỗ Tiến sĩ [1].

Thăng trầm nghiệp quan

Ban đầu, Dương Khuê được bổ làm Tri phủ Bình Giang (Hải Dương), rồi thăng làm Bố chính.

Đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ 19, tay lái buôn Jean Dupuis uy hiếp các quan chức người ViệtBắc Kỳ để tự do sử dụng sông Hồng, ông ở trong nhóm những sĩ phu cương quyết chống lại. Ông dâng sớ về triều xin có thái độ quyết liệt với người Pháp, bị vua Tự Đức phê là "bất thức thời vụ" (không biết thời cuộc), rồi bị giáng xuống chức Chính sứ sơn phòng lo việc khai hoang [2].

Năm 1873, quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Sau khi thương thuyết, họ chịu trả lại bốn thành cho triều đình Huế, thì Dương Khuê được điều động làm Án sát Hải Phòng. Rồi vì để thiếu "hai nén bạc" trong kho, ông bị đồng liêu đàn hặc, bị nghị tội "giảo giam hậu" (chém nhưng tạm giam lại để xét sau). Xem án, vua Tự Đức tha thứ, song cách hết chức tước, chỉ cho ông giữ lại hàm Biên tu và đày ra sơn phòng khẩn hoang.

Năm 1878, nhân lễ "ngũ tuần khánh thọ " của mình, vua Tự Đức xuống chỉ cho ông làm Đốc học Nam Định. Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình.

Năm 1897, Toàn quyền Paul Doummer xóa bỏ điều 7 của Hòa ước Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guống máy cai trị của Chính phủ bảo hộ, thì Dương Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng hàm Thượng thư bộ Binh [1].

Mất

Dương Khuê mất ngày 6 tháng Ba năm Nhâm Dần (1902). Nghe tin, bạn thân ông là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ Khóc bạn để viếng ông (trong đó mở đầu bằng câu: "Bác Dương thôi đã thôi rồi").

Tác phẩm của ông để lại có Vân Trì thi thảo (Bản thảo thơ Vân Trì); và một số bài ca trù, bài văn, câu đối, trướng...

Nhận xét (sơ lược)

Trước đây, ông vẫn được xem là một đại biểu của khuynh hướng "thoát ly hưởng lạc" trong văn học Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ 19. Nhà phê bình Nguyễn Tường Phượng viết: "Sinh vào lúc Nho học tàn cuộc, quốc gia mất chủ quyền nên cũng như bạn đồng thời là Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê lấy thơ, rượu, ca xướng...để tiêu khiển". Đồng quan điểm này, GS. Phạm Thế Ngũ xếp các tác phẩm của Dương Khuê vào nhóm "Văn hành lạc và trào phúng" [3]. Song gần đây, bước đầu giới nghiên cứu đã có cách lý giải mới đối với phần tâm sự của ông gửi gắm trong thơ văn. Là một viên chức buổi giao thời, đường làm quan không mấy suôn sẻ..., vì thế các sáng tác của ông, chính là một phương tiện giúp ông giải tỏa những bất mãn đối với hiện thực...

Tuy có làm thơ chữ Hán, nhưng ông nổi tiếng nhờ những bài ca trù. Với sự tinh luyện về ngôn ngữ và sự hài hòa trong trong thanh điệu của ông, khiến những bài ấy luôn cuốn hút người nghe [4].

Nhìn chung, xét về lời, thơ Dương Khuê đã đạt đến trình độ "thanh thoát, uyển chuyển và hóm hỉnh" [5].

Giới thiệu một bài ca trù

Dưới đây là bài ca trù tiêu biểu và nổi tiếng của Dương Khuê:

Gặp lại cô đầu cũ
Hồng Hồng, Tuyết, Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!
Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,
Kim quân hứa giá, ngã thành ông[6]
Cười cười nói nói thẹn thùng,
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.
Riêng một thú Thanh Sơn[7] đi lại,
Khéo ngây ngây dại dại với tình.
Đàn ai một tiếng dương tranh...[8]

Hà Nội tức cảnh

Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Tiếng chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.

bài thơ này nằm trong cuốn Vân Trì thi thảo.

Thông tin thêm

Em Dương Khuê là Dương Lâm (1851-1920), từng giữ chức Phó Tổng tài Quốc sử quán nhà Nguyễn, Chủ bút báo Đồng Văn…Sau ông xin cáo quan về mở trường dạy học tại quê nhà. Ông là người tao nhã, yêu nước, có tài văn chương, và là một nhà giáo giỏi[9]. Trong số các cháu nội của hai ông (Dương Khuê và Dương Lâm), có những người nổi tiếng như: nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Giáo sư-Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, nhà thơ Dương Tuyết Lan, nhà khoa học Dương Nguyệt Ánh, nhạc sĩ Dương Thụ, nhạc sĩ kiêm thi sĩ Dương Hồng Kỳ.

chú thích

Các tác phẩm khác

Truyện Kiều 1351-1400 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:08
Lượt xem 10162
1351 “Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
1352 “Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
1353 “ở trên còn có nhà thông,
1354 “Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?

Truyện Kiều 1401-1450 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:07
Lượt xem 15970
1401 “Lượng trên quyết chẳng thương tình,
1402 “Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”
1403 Thấy lời sắt đá tri tri,
1404 Sốt gan, ông mới cáo quì cửa công.

Truyện Kiều 1451-1500 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:04
Lượt xem 16020
1451 Cười rằng: “Đã thế thì nên,
1452 “Mộc già hãy thử một thiên, trình nghề.”
1453 Nàng vâng cất bút tay đề,
1454 Tiên hoa trình trước án phê, xem tường.

Truyện Kiều 1501-1550 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:03
Lượt xem 15138
1501 Sông Tần một dải xanh xanh,
1502 Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương-quan.
1503 Cầm tay dài ngắn thở than,
1504 Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.

Truyện Kiều 1551-1600 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:02
Lượt xem 14623
1551 “Làm cho trông thấy nhãn tiền.
1552 “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”
1553 Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
1554 Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

Truyện Kiều 1601-1650 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:01
Lượt xem 14862
1601 Được lời như cởi tấc son,
1602 Vó câu thẳng ruổi, nước non quê người.
1603 Long lanh đáy nước in trời,
1604 Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

Truyện Kiều 1651-1700 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:00
Lượt xem 14412
1651 Tôi đòi phách lạc, hồn bay,
1652 Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình.
1653 Thúc ông nhà cũng gần quanh,
1654 Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời.

Truyện Kiều 1701-1750 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:37
Lượt xem 15229
1701 Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
1702 Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703 Tiếc hoa, những ngậm ngùi xuân,
1704 Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!

Truyện Kiều 1751-1800 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:32
Lượt xem 9742
1751 Dạy rằng: “May rủi đã đành,
1752 “Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
1753 “Cũng là oan nghiệp chi đây,
1754 “Sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng.

Truyện Kiều 1801-1850 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:31
Lượt xem 13400
1801 Tiểu thư đón cửa giã giề,
1802 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803 Nhà hương cao cuốn bức là,
1804 Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mừng.

Hiển thị 1701 - 1710 tin trong 2194 kết quả