Thơ

Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

22/12/2014 10:46
Lượt xem 29822

nguồn : http://vi.wikipedia.org

xem thêm : tác phẩm

Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là nhà thơ Nôm nổi tiếng cuối thế kỷ 18, đầu thể kỷ 19 (1772-1822). Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Tiểu sử

Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi; thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:

  • Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.'
  • Năm sinh năm mất ,thân thế cuộc đời và thơ văn của bà đến nay vẫn còn sơ khai ....... Lai lịch của bà không biết rõ
  • Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An (*). Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.[1]
  • Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức 1772-1822. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
  • Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
  • Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện "cổ nguyệt đình"?. Bà không dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng của nho giáo, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một minh chứng cho xã hội thời đó về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
  • Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
  • Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, quan Tri phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển).

Tác phẩm

Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.

Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris vào năm 1984. Ngoài ra, Hồ xuân Hương còn viết bài "Bánh trôi nước" rất nổi tiếng.

Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương ký 琉香記, theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương. Lưu hương ký là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.

chú thích

Các tác phẩm khác

33. Như xưa xưa vẫn…  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:38
Lượt xem 18400
Ôm mây gối núi ăn rừng
Trở trời trái gió nửa chừng cũng không
Nửa chừng áo đỏ sang sông
Đò quên lướt sóng sóng mong đò chìm

32. Như tình  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:37
Lượt xem 17929
Gió trăng lẽo đẽo không tha
Như tình? Như nợ? Như ma quỷ cào
Nắng hồng ôm lụa bay cao
Bỏ vầng mây trắng chiêm bao trễ đò

31. Mất hồn  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:36
Lượt xem 17655
Bỏ hết buồn rồi ta còn không
Hay ta còn lại hạt bụi hồng
Lững lờ trong gió trôi trong nắng
Mất cả ngọn nguồn quên đục trong!

30. Sững sờ  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:35
Lượt xem 17040
Một ngày nắng sữa mưa hoa
Gió trêu chín bưởi chua cà ngọt chanh
Sững sờ em hốt hồn anh
Gieo ngon kiếp trước gặt lành kiếp sau

29. Khói mây  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:34
Lượt xem 30656
Nắng muộn lơ thơ lạ đất trời
Tha hương cầu thực có gì vui
Chân mòn đau tủi hồn hoang dã
Lối cũ lòng quê bỗng ngậm ngùi!

28. Cũng đã chân mây  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:33
Lượt xem 21504
"Hương quê lòng khói đã chân mây
Vườn hoang giếng lạnh rớt trâm cài
Ve sầu dạ nhẹ tình hoa nắng
Vòng thơm kỷ niệm áo mưa bay"

27. Lơ lửng  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:31
Lượt xem 21449
Vô vi không phải không làm
Không làm không phải không tham muốn gì
Hình như chân chẳng chịu đi
Mà lòng vẫn muốn... hòn bi cũng thèm?

26. Chết đuối  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:30
Lượt xem 28240
Thân tặng Nguyễn Ngọc Liên & Dương Thị Tuyết Nhung

Cánh hoa xuân muộn rụng trước thềm
Tưởng nghe chăn gối gọi thân quen
Ngờ đâu em dậy lo cơm nước
Lỡ mộng cuối tuần... tiếc vai êm!

25. Cổ tích  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:28
Lượt xem 20866
Em như nắng ấm đầu xuân
Như hoa đồng nội rất thân rất hiền
Như cổ tích như thần tiên
Mây qua đỉnh núi thăm miền thơ ngây

24. Lặng lẽ  - Luân Tâm - Thơ

17/12/2014 15:27
Lượt xem 24127
Lang thang hốt rác, nhặt hoa rơi
Có phải quê xưa cuối chân trời
Những giọt mồ hôi lăn trên má
Hay dòng lệ khóc kiếp nổi trôi?

Hiển thị 1311 - 1320 tin trong 2164 kết quả