Thơ

Hoàng Cầm (1922-2010) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

06/01/2015 20:41
Lượt xem 25378

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, (sinh 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang – mất 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội), là một nhà thơ Việt Nam.

Tiểu sử

Quê gốc của Hoàng Cầm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.

Năm 1944, do Thế chiến thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.

Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.

Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Tuy nhiên, không lâu sau, do vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu non năm 1970 lúc 48 tuổi.

Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông.

Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.[1]

Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.[2]

Thời gian cuối đời ông sống tại Hà Nội và ông đã mất vào ngày 6 tháng 5 năm 2010 vì bệnh nặng.

Tác phẩm

  • Hận ngày xanh (phóng tác theo Lamartine 1940);
  • Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen 1940);
  • Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941);
  • Thoi mộng (truyện vừa, 1941);
  • Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942);
  • Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944, 1942);
  • Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943);
  • Kiều Loan (kịch thơ, 1945)
  • Ông cụ Liên (kịch nói, 1952);
  • Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi, 1957);
  • Tiếng hát quan họ (trường ca, in chung trong tập Cửa Biển, 1956);
  • Những niềm tin (thơ dịch của Bonalan Kanfa - Algérie, 1965);
  • Men đá vàng (truyện thơ, viết 1973, nxb Trẻ, 1989)
  • Trương Chi (kịch thơ, xuất bản năm 1993)
  • Tương lai (kịch thơ, 1995);
  • Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  • Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  • Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994);
  • 99 tình khúc (tập thơ tình, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007

chú thích

Các tác phẩm khác

Khoa canh Tý (1900)  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:10
Lượt xem 25944
Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa
Tuân khoe văn hoạt, Nghị văn già
Khoa này đỗ rặt phường hay chữ
Kìa bác Lê Tuyên cũng thứ ba.

Khoa thi  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:10
Lượt xem 23233
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.

Khóc vợ bạn  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:08
Lượt xem 25143
Quả núi Châu Phong mới bắc cầu (1)
Thương anh về trước chị về sau !
Tên đề bảng phấn ai không tiếc
Tiếng khóc non xanh vượn cũng sầu

Không học vần tây  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:07
Lượt xem 13459
Mợ bảo vần Tây chẳng khó gì ! (1)
Cho tiền đi học để chờ thì.
Thôi thôi lạy mợ "xanh căng" lạy. (2)
Mả tổ tôi không táng bút chì !

Làm lẽ  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:07
Lượt xem 35032
Cha kiếp sinh ra phận má hồng
Khéo thay một nỗi lấy chung chồng
Mười đêm chị giữ mười đêm cả
Suốt tháng em nằm suốt tháng không

Làm lẽ thứ tư  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:06
Lượt xem 22405
Những trách có mình tính lẳng lơ
Làm hai chẳng muốn, muốn làm tư !
Say đường buôn bán nên không lãi
Tính chuyện trăng hoa phải mắc lừa

Lên đồng  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:05
Lượt xem 26093
Khen ai khéo vẽ sự lên đồng
Một lúc lên ngay sáu bảy ông
Sát quỷ ông dùng thanh kiếm gỗ
Ra oai bà giắt cái khăn hồng

Lụt năm Bính Ngọ (1)  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:04
Lượt xem 28071
Thử xem một tháng mấy lần mưa
Ruộng hóa ra sông cỏ vật vờ
Bát gạo Ðồng Nai câu chuyện cũ (2)
Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa (3)

Mai mà tớ hỏng  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:04
Lượt xem 15817
Mai mà tớ hỏng tớ đi ngay
Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày (1)
Học đã sôi cơm nhưng chửa chin,
Thi không ăn ớt thế mà cay !

Mẹ vợ với chàng rể  - Tú Xương (Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Thơ

21/12/2014 06:03
Lượt xem 21561
Ai về nhắn bảo việc này cho :
Nhắn bảo ai rằng việc nhỡ to ! (1)
Chép miệng, bà nuôi to cái dại,
Phờ râu, ông rể ẵm con so !

Hiển thị 241 - 250 tin trong 2208 kết quả