Thơ

Hữu Loan (1916 -2010) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

07/01/2015 17:38
Lượt xem 21642

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Hữu Loan (2 tháng 4 năm 1916 - 18 tháng 3 năm 2010) là một nhà thơ Việt Nam, đồng niên với nhà thơ Xuân Diệu. Quê ông tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Tiểu sử

Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan [2]; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914)[3] tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội [4]. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Ông sáng tác những tác phẩm thường mang tính phản chiến và con người trong thời kỳ chiến tranh.

Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương[cần dẫn nguồn]. Cuối đời ông về sống tại quê nhà.[5]

Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến [6]. Có thông tin cho rằng, do nội dung bài thơ nặng nề tình cảm và ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý quân dân, nên ông bị giải ngũ [cần dẫn nguồn]. Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi (tuổi mụ hay còn gọi là tuổi âm).

Tác phẩm

Hữu Loan để lại khoảng 60 bài thơ trước lúc ông mất. Tuy nhiên chưa xuất bản tập thơ nào, dưới đây là một số bài thơ đã được phổ biến của ông:

  • Cũng những thằng nịnh hót
  • Đèo Cả
  • Đêm
  • Màu tím hoa sim
  • Hoa lúa
  • Ngày mai
  • Thánh mẫu hài đồng
  • Tình Thủ đô
  • Yên mô

Đánh giá

Nhật Chung:

Hữu Loan là người ẩn tướng. Thoạt nhìn, rất khó đoán định nội lực của con người vừa có dáng tiên phong đạo cốt vừa có vẻ một tiều phu núi xanh này. Thì đúng, Hữu Loan đã từng làm công việc nặng hơn việc một tiều phu: ông thồ xe chở đá

Thơ Hữu Loan thường làm theo thể tự do, có âm điệu giàu nhạc tính để chuyển tải tâm sự vì thế những bài thơ hiếm hoi đã được phổ biến của ông đều sống trong lòng độc giả. Nói đến Hữu Loan là người ta nhớ đến Màu tím hoa sim, bài thơ xuất phát từ là nỗi lòng của riêng ông nhưng gây xúc động và nhận được sự đồng cảm của người đọc. Bài thơ đã được các nhạc sỹ Dũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng phổ nhạc. Vào tháng 10 năm 2004, Màu tím hoa sim đã được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (viết tắt: ViTek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng.[8]

Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (Điếu văn tiễn biệt Nhà thơ Hữu Loan):

Ông ra đi thanh nhàn, nhẹ nhõm và mãn nguyện như vừa chở xong một chuyến xe đá giữa bà con xóm giềng. Những người như ông không bao giờ coi cái chết là trút xong một món nợ đời, mà chính là bước sang một thế giới khác sinh sinh, hóa hóa vô thường. Thế hệ đời sau nhớ mãi một nhà thơ chiến sĩ, nhớ mãi thi nhân chở đá xây đời.[5]

Vài nét về gia đình

Hữu Loan kết hôn hai lần, lần thứ nhất vào đầu năm 1949 với bà Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái của nguyên Tổng thanh tra nông lâm xứ Đông Dương Lê Đỗ Kỳ, Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm 1946)[9]. Hữu Loan quen biết bà Ninh khi ông còn học college Đào Duy Từ, Thanh Hóa. Ông đã làm gia sư dạy mấy người anh trai và sau đó là bà Ninh. Tháng 5 năm 1949, bà Ninh mất (do chết đuối) khi mới 16 tuổi và bài thơ Màu tím hoa sim ra đời. Sau đó ông kết hôn với bà Phạm Thị Nhu, một nông dân, bài thơ Hoa lúa (1955) chính là bài thơ viết tặng người vợ thứ hai này.[10]

chú thích

Các tác phẩm khác

Dĩ hòa vi quý  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:46
Lượt xem 10537
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn
Ðây rằng đây phải, đấy không thua

Của nặng hơn người  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:45
Lượt xem 14191
Ðời nay nhân nghĩa tựa vàng mười
Có của thì hơn hết mọi lời
Trước đến tay không, nào thiết hỏi
Sau vào gánh nặng, lại vui cười

Cảnh nhàn  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:44
Lượt xem 13554
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao

Lòng vô sự  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:43
Lượt xem 15269
Trải nguy nan đã mấy phen
Thân nhàn phúc lại được về nhàn
Niềm xưa trung ái thề chẳng phụ
Cảnh cũ điền viên thú đã quen

Mùa thu đi chơi thuyền  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:43
Lượt xem 7570
Nước xuôi nước ngược, sóng dâng triều
Thuyền khách chơi thu, nọ phải dìu
Chèo vượt bóng trăng, nhân lúc hứng
Buồm giong ngọn gió mặc cơn siêu

Mặc chê khen  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:42
Lượt xem 18474
Thị phi chẳng quản, mặc chê khen
Ngu dại chan chan, tính đã quen
Cảnh cũ điền viên, tìm chốn cũ
Khách nhàn sơn dã, dưỡng thân quèn

Tự thán  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:41
Lượt xem 8877
Gần son thì đỏ, mực thì đen
Sáng biết nhờ ơn thửa bóng đèn
Ăn uống miễn theo nơi phép tắc
Tới lui cho biết lẽ kinh quyền

Thói đời  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:39
Lượt xem 79801
Thế gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi

Nhân tình thế thái  - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thơ

21/08/2013 19:38
Lượt xem 14036
Thấy dặm thanh vân bước ngại chen
Được nhàn ta sá dưỡng thân nhàn
Ba gian am quán lòng hằng mến
Đôi chốn sơn hà mặt đã quen

Danh sách Nhà thơ : Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

20/08/2013 10:02
Lượt xem 24642
Bà Huyện Thanh Quan - Bằng Việt - Bích Khê - Bùi Giáng - Bùi Minh Quốc - Cao Bá Quát - Cao Thoại Châu - Chế Lan Viên - Đặng Quang Chính - Đặng Thai Mai - Đặng Trần Côn - Đỗ Phồn - Đỗ Phủ - Đỗ Trung Quân - Đồng Đức Bốn - Đông Hải - Dương Khuê - Duong Lam - Giang Nam - goldonline.vn - Hàn Mặc Tử - Hồ Dzếnh - Hồ Xuân Hương - Hoài Thanh - Hoàng Cầm - Hoàng Hà - Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hồng Nguyên - Hữu Loan - Hữu Thỉnh - Huy Cận - Huyền Minh - Khái Hưng - Kim Giang - Lâm Thị Mỹ Dạ - Lê Anh Xuân - Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái - Lê Ngọc Hân - Luân Tâm - Lưu Quang Vũ - Lưu Trọng Lư - Lưu Vĩnh Hạ - Lý Bạch - Lý Thường Kiệt - Lý Tử Tấn (Nguyễn Gia Linh) - Mai Đình - Mộng Tuyết - Nam Cao - Nắng Xuân - Ngô Tất Tố - Nguyễn Bính - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Công Trứ - Nguyễn Đình Chiểu - Nguyên Đỗ - Nguyễn Du - Nguyễn Duy - Nguyên Hông - Nguyễn Huy Tưởng - Nguyễn Khoa Điềm - Nguyễn Khuyến - Nguyễn Lê Huy - Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Mỹ - Nguyễn Nhật Ánh - Nguyễn Nhược Pháp - Nguyên Thạch - Nguyên Thanh Hòa - Nguyễn Thành Long - Nguyễn Thi - Nguyễn Trãi - Nguyễn Trung Kiên - Nguyễn Tuân - Nguyễn Vũ Tiềm - Nguyễn Vỹ - Nhóm Văn Thơ Lạc Việt - Phạm Huy Thông - Phạm Ngọc Thái - Phạm Thiên Thư - Phan Bội Châu - Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh)- Phan Khôi - Phùng Khắc Khoan - Phương Triều - Phuongtim - Puskin - Quách Tấn - Quang Dũng - Tạ Ty - Tản Đà - Tăng Minh Luân - Tế Hanh - Thâm Tâm - Thăng Trầm - Thanh Hòa - Thanh Tùng - Thế Lữ - Thơ vui - Thuận Hữu - Tô Đông Pha - Tố Hữu - Trầm Vân - Trần Đăng Khoa - Trần Hậu - Trần Hữu Nghiễm - Trần Huyền Trân - Trần Mạnh Hùng - Trần Tuấn Khải (Á Nam) - Trịnh Công Sơn - Tú Mỡ - Tú Xương(Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Vũ Cự - Vũ Hoàng Chương - Vũ Ngọc Phan - Vũ Trọng Phụng - Vương Đức Lệ - Xuân Diệu - Xuân Quỳnh - Xương Rồng

Hiển thị 1811 - 1820 tin trong 2227 kết quả