Thơ

Lưu Trọng Lư (1911-1991) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

22/12/2014 10:40
Lượt xem 29564

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1911 – 10 tháng 8 năm 1991), là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam.

Tiểu sử

Lưu Trọng Lư là người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống.

Năm 1932, ông là một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực cổ vũ cho Phong trào Thơ mới.

Năm 1933-1934, ông chủ trương mở Ngân Sơn tùng thư ở Huế.

Năm 1941, ông và thơ ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV.

Sau 1954, ông công tác ở Bộ Văn hóa và làm Tổng Thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

Năm 1991, Lưu Trọng Lư mất tại Hà Nội. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.

Con trai thứ chín của ông là đạo diễn Lưu Trọng Ninh.

Tác phẩm

Thơ

  • Tiếng thu (1939)
  • Tỏa sáng đôi bờ (1959)
  • Người con gái sông Gianh (1966)
  • Từ đất này (197l)
  • Chị em (1973)
  • Đây mùa thu tới (1987)
  • Bâng khuâng (1988)
  • Bao la sầu (1989)

Sân khấu

  • Nữ diễn viên miền Nam (cải lương)
  • Cây thanh trà (cải lương)
  • Xuân Vỹ Dạ (kịch nói)
  • Anh Trỗi (kịch nói)
  • Hồng Gấm, tuổi hai mươi (kịch thơ,1973)

Văn xuôi

  • Người sơn nhân (truyện, 1933)
  • Chiếc cáng xanh (truyện, 1941)
  • Khói lam chiều (truyện, 194l)
  • Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978)
  • Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)

Đánh giá

Là một trong những người tiên phong của Phong trào Thơ mới, những bài thơ của ông mà "nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta" [1] đã góp phần khẳng định vị thế của Thơ mới. Hình ảnh:

...Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô...
(Tiếng thu)

hay người mẹ với:

...Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong nắng trưa hè trước dậu thưa
(Nắng mới)

trong thơ Lưu Trọng Lư đã trở thành những biểu tượng vượt thời gian.

Thơ Lưu Trọng Lư

Trích giới thiệu:

Tiếng thu
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?
Mắt buồn
Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói,
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi,
Qua rồi mùa ân ái:
Đàn sếu đã sang sông.
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa,
Nhìn nhau mà lệ ứa,
Một ngày một cách xa...

Bài thơ Tiếng thu đã được các nhạc sĩ Lê Thương, Phạm Duy, Hữu Xuân phổ nhạc thành bài hát cùng tên, còn bài Một mùa đông cũng được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ thành bài Mắt buồn.

chú thích

Các tác phẩm khác

Những chiếc lá rơi  - Lưu Quang Vũ - Thơ

22/08/2013 14:41
Lượt xem 22771
Con người bé nhỏ
trong thành phố không màu
trước một chiếc cầu
không thể đi qua

Bài hát ấy vẫn còn dang dở  - Lưu Quang Vũ - Thơ

22/08/2013 14:40
Lượt xem 20222
Nắng đã tắt dần trên lá im
Chiều đã xẫm màu xanh trong mắt tối
Đường đã hết trước biển cao vời vợi
Tay đã buông khi vừa dứt cung đàn

Bầy ong trong đêm sâu  - Lưu Quang Vũ - Thơ

22/08/2013 14:39
Lượt xem 18521
Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh
Thắp một ngọn đèn hồng như ánh lửa
Ðêm sâu quá đêm nào biết ngủ
Chỉ con người đến ngủ giữa đêm thôi

Chiều chuyển gió  - Lưu Quang Vũ - Thơ

22/08/2013 14:36
Lượt xem 16246
Chân bước vội em về từ phố rộng
Mang mùa hè xanh biếc trên vai
Chiều mênh mông gió lớn thổi từ trời
Em bỏ nón, tóc lòa xòa trên má.

Bắc hành tạp lục  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 14:25
Lượt xem 16247
Tập thơ này của Nguyễn Du sáng tác trong vòng 1 năm, từ tháng hai đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813) khi ông cầm đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc. Mở đầu quyển là bài cảm tác khi trở ra Thăng Long để lên đường sang Trung Quốc. Bài cuối làm khi trở về đến Võ Xương (Hồ Bắc), từ đó lên thuyền trở về, nên không có đề tài ngâm vịnh nữa. Thơ ghi chép những điều trông thấy, những cảm nghĩ dọc đường.

Bắc hành tạp lục - Bài 1  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 14:23
Lượt xem 17982
Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung

Bắc hành tạp lục - Bài 2  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 14:22
Lượt xem 14982
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
Do thị Thăng Long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh

Bắc hành tạp lục - Bài 3  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 14:20
Lượt xem 13840
Phồn hoa nhân vật loạn lai phi
Huyền hạc qui lai kỷ cá tri
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly

Bắc hành tạp lục - Bài 4  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 14:19
Lượt xem 14100
Thành Thăng Long nhớ từ thửa nọ
Bậc giai nhân tên họ ai hay
Ðàn cầm thánh thoát mấy dây
Khắp thành quen miệng gọi ngay Nàng Cầm

Bắc hành tạp lục - Bài 5  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 14:17
Lượt xem 12937
Liên phong cao sáp nhập thanh vân
Nam bắc quan đầu tựu thử phân
Như thử hữu danh sinh tử địa
Khả liên vô số khứ lai nhân

Hiển thị 1591 - 1600 tin trong 2141 kết quả