Thơ

Lý Tử Tấn (1378-1457) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

07/01/2015 10:31
Lượt xem 26299

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Lý Tử Tấn (tới khi đứng tuổi, ông mới đổi tên là Nguyễn Tử Tấn; 1378-1457), hiệu Chuyết Am; là quan nhà Lê sơ, và là nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ.

Tiểu sử

Lý Tử Tấn là người ở làng Triều Đông (sau đổi là Triều Liệt), huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh huyện Thường Tín, Hà Nội). Năm 1400, ông thi đỗ Thái học sinh lúc 32 tuổi, cùng khoa với Nguyễn Trãi, thời Hồ Quý Ly, nhưng không làm quan cho nhà Hồ.

Vào khoảng cuối cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn, ông đến yết kiến nơi hành tại, được Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi), khen là người học nhiều, sai giữ chức Văn cáo tức là làm nhiệm vụ thảo công văn, giấy tờ, thư tín...

Sau đó, ông tiếp tục làm quan dưới triều nhà Lê, trải qua ba đời vua: Lê Thái Tổ (1428- 1433), Lê Thái Tông (1434-1442), Lê Nhân Tông (1443-1459), trải các chức: Thông phụng đại phu, Hành khiển Bắc đạo, Thừa chỉ viện Hàn lâm, vào hầu giảng ở tòa Kinh Diên.

Theo Từ điển Văn học (bộ mới), dưới triều Lê Thái Tổ, ông có đi sứ Chiêm Thành. Khi Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn ông đã thay Nguyễn Trãi thảo nhiều chiếu lệnh, chế cáo và thư từ [1].

Ông mất năm 1457[2], thọ 79 tuổi.

Tác phẩm

Lý Tử Tấn có Chuyết Am thi tập (chữ Hán), nhưng hiện chỉ còn 5 bài phú chép trong Quần hiền phú tập do Hoàng Tụy Phu (1414-?) sưu tập, và 73 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726-1784).

Trong 5 bài phú còn lại, nổi tiếng nhất là bài Phú Xương Giang, ca ngợi chiến thắng Xương Giang ngày 3 tháng 11 năm 1427 của nghĩa quân Lam Sơn: tiêu diệt 7 vạn quân Minh và bắt sống các tướng nhà MinhThôi Tụ, Hoàng Phúc... Ngoài ra, ông cũng có làm lời thông luận cho bộ Dư địa chí của Nguyễn Trãi; hiệu chính và phê điểm trong bộ Việt âm thi tập.

Đóng góp cho văn học

Đại để sáng tác của Lý Tử Tấn gồm hai phần:

Phần đầu mang tử lạc quan, tích cực của thời kỳ kháng chiến chống Minh và những năm rực rỡ của nhà Lê sơ; gồm các bài như: Hạ tiệp (Mừng thắng trận), Hạ đăng cực (Mừng vua lên ngôi), Quan duyệt võ (Xem duyệt võ), Tứ hải nhất gia (Bốn bể một nhà); và nhất là 2 bài phú: Chí Linh sơn phú (Phú núi Chí Linh) & Xương Giang phú vừa nói trên.

Phần thứ hai, ông nói đến lý tưởng sống thanh cao, thường phác họa mình là một con người sống đạm bạc, thường tự nhủ mình hãy sống theo "đạo trời", vì "đạo trời" sẽ chi phối tất cả. Ở đây còn có cái cô đơn vì nhà thơ cảm thấy chán nản trước mọi chuyện phức tạp của trường danh lợi; cho nên thơ ông có đôi chút băn khoăn, nhưng không đến mức bi phẫn. Tiêu biểu ở mảng thơ này có bài như: Hạ nhật (Ngày hạ), Sơ thu (Đầu thu), Lý Tử Tấn đề Ức trai bích (Lý Tử Tấn đề vách nhà Ức trai) Tạp hứng (2 bài)...

Về nghệ thuật, thơ và phú của Lý Tử Tấn mang phong cách bình đạm. Câu thơ thường chân chất, không khuôn sáo, không đậm nét trữ tình như Nguyễn Trãi.

Nhận xét chung về Lý Tử Tấn, Phan Huy Chú viết: "Ông tiêu dao ở các chức nhàn tản, là bậc nhà nho có tuổi thời bấy giờ. Thơ ông chuộng giản dị, phần nhiều có ý thơ cổ" (Lịch triều hiến chương loại chí); còn Lê Quý Đôn thì chép rằng "ông là người danh vọng, đức độ, kỳ cựu, túc học..." (Kiến văn tiểu lục, mục Tài phẩm).

Nhìn chung, không gian thơ của Lý Tử Tấn là một không gian nhẹ nhàng, trong tĩnh. Cái không gian như vậy chỉ có thể thấy trong thế giới tinh thần tĩnh tại Á Đông xưa. Tuy nhiên, ông vẫn là một nhà nho (ra làm quan) nhập thế, luôn làm tròn chức trách của mình, nhưng không hề bị công danh làm lụy [3].

Quan điểm sáng tác

Lý Tử Tấn làm thơ trên quan điểm thi pháp của mình. Ông nói:

Tôi cho rằng phép làm thơ khó lắm thay! Thơ luật chỉ có 56 chữ, thơ tuyệt cú lại chỉ có 28 chữ, mà đủ mọi thể cách. Muốn thơ cổ kính, thanh đạm thì lại gần với thô; muốn đẹp đẽ, phong phú thì lại gần sự lòe loẹt; hào phóng thì dễ buông thả, thật thà thì dễ quê mùa. Cho nên lời ý giản dị đầy đủ, mạch lạc thông suốt, chất phác mà vẫn nhã, mới lạ mà không trúc trắc, trung hậu nhưng không thô kệch, cao siêu mà vẫn ôn hòa, đó là những điều rất khó có thể đạt được (Tựa sách Việt âm thi tập)[4].

Giới thiệu thi phẩm

Sơ thu (Đầu thu)
Nắng hòe êm dịu xế tường vôi,
Mềm mại chồi sen quạt gió trời.
Sắc lẫn màu thu trời rợn bóng,
Ánh lồng vẻ núi nước trong ngời.
Cua vàng gạch óng vào đăng sớm,
Phật thủ da xanh nở múi rồi,
Bình sẵn rượu ngon vui cứ uống,
Đợi gì giậu cúc nhị vàng phơi.[5].
Tạp hứng (bài 1)
Chim trĩ chết, vì lông đẹp
Rùa bị đốt, vì mai thiêng.
Gỗ xấu, không phải làm rường cột,
Vật cộc đuôi, khoải phải làm hy sinh.
Dùng bỏ đều có mệnh,
Can chi nhọc một đời!
Đầu giường có sách cổ,
Trong hòm có gươm báu.
Đọc sách thắm thía được đạo hay,
Cầm gươm vui vẻ thời thanh bình.
Cúi ngửa khoảng trời đất,
Việc muôn đời như không.[6].

chú thích

Các tác phẩm khác

Truyện Kiều 1901-1950 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:28
Lượt xem 14273
1901 “Ví chăng có số giàu sang.
1902 “Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
1903 “Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
1904 “Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời!”

Truyện Kiều 1951-2000 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:27
Lượt xem 14615
1951 “Quản chi lên thác xuống ghềnh,
1952 “Cũng toan sống thác với tình cho xong.
1953 “Tông đường chút chửa cam lòng,
1954 “Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.

Truyện Kiều 2001-2050 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:26
Lượt xem 8033
2001 “Ngăn tôi đứng lại một bên,
2002 “Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.”
2003 Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
2004 “Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!

Truyện Kiều 2051-2100 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:25
Lượt xem 13381
2051 “Chỉn en đường sá một mình,
2052 “ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày,”
2053 Gửi thân được trốn am mây,
2054 Muối dưa đắp đổi, tháng ngày thong dong,

Truyện Kiều 2101-2150 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:24
Lượt xem 8073
2101 “Nơi gần,thì chẳng tiện nơi,
2102 “Nơi xa,thì chẳng có người nào xa.
2103 “Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà.
2104 “Cùng trong thân thích ruột rà,chẳng ai.

Truyện Kiều 2151-2200 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:23
Lượt xem 19716
2151 Chém cha cái số hoa đào,
2152 Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
2153 Nghĩ đời mà ngán cho đời,
2154 Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!

Truyện Kiều 2201-2250 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:21
Lượt xem 9013
2201 “Khen cho con mắt tinh đời,
2202 “Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
2203 “Một lời đã biết đến ta,
2204 “Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Truyện Kiều 2251-2300 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:20
Lượt xem 14901
2251 Ngất trời, sát khí mơ màng,
2252 Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
2253 Người quen kẻ thuộc chung quanh,
2254 Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.

Truyện Kiều 2301-2350 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:19
Lượt xem 9516
2301 Mấy người phụ bạc xưa kia.
2302 Chiếu danh tầm nã, bắt về hỏi tra.
2303 Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
2304 Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.

Truyện Kiều 2351-2400 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:18
Lượt xem 13818
2351 Nàng rằng: “Xin hãy rốn ngồi,
2352 “Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!”
2353 Kíp truyền chư tướng hiến phù.
2354 Lại đem các tích phạm tù hậu tra.

Hiển thị 1731 - 1740 tin trong 2213 kết quả