Thơ

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

27/12/2014 14:15
Lượt xem 29111

nguồn : http://vi.wikipedia.org

xem thêm : tác phẩm

Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 17781858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.

Tiểu sử

Nguyễn Công Trứ con quan Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp:

Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.

Năm 1819[1] khi đã 41 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên ở trường thi hương trấn Nghệ An. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca.

Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…

Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên. Ông đúng là một vị quan văn - võ song toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước.

Sự nghiệp

Quân sự

Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia LongMinh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp Khởi nghĩa Nông Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Ông cũng góp nhiều công lớn trong cuộc Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845). Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.

Kinh tế

Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng thờ ông và tôn ông làm thành hoàng làng.

Thơ ca

Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó.

Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy

Hay:

Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi

Hoặc:

Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.

Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn:

Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.

Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế.

Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.

Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng . Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi:

Năm mươi năm trước, anh hai ba
(Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam)

Hoặc trong bài "Bỡn nhân tình":

Tau ở nhà tau, tau nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi nói: răng không đến?
Đến thì mi nói: đến làm chi

Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:

Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông

Ghi chú: Cây thông trong cách hiểu Nho-Khổng giáo là người quân tử.

Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi.

chú thích

Các tác phẩm khác

Tiễn em  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:14
Lượt xem 20811
Tiễn em đi, như tiễn cả hồn mình
Anh trở lại với căn phòng ngơ ngẩn
Em ra đi, thương nhớ về vây chặt
Thương nhớ này dìu dắt nhớ thương kia

Tiếng ve  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:14
Lượt xem 24430
Trưa hè
tiếng ve
ra rả
Ai gọi "ve sầu"

Trở lại Tây Sơn  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:13
Lượt xem 27084
Anh trở về thăm lại Tây Sơn
Bến đò xưa. Cây cầu qua nhà nội
Ngồi dưới gốc me già nghe gió thổi
Gió tự mấy trăm năm áo vải cờ đào

Tự ngẫm  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:11
Lượt xem 29584
Nhiều lúc anh nóng nảy cùng em
Đã trách mắng giận hờn vô lý
Khi ấy, anh không hiểu làm sao nữa
Đến lúc bình tâm anh cảm thấy buồn

Tự ngẫm (Ii)  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:11
Lượt xem 17533
Sau bao năm lấy chồng.
Cặp vú tròn căng của em giờ nhão xuống.
Dành cho chồng niềm vui,
dành cho con sự sống,
em nhận hết về mình dáng nét tàn phai.

Tuổi thơ  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:08
Lượt xem 15252
Có khi nào về lại với tuổi thơ
Cùng bạn bè ngâm mình trong nước biển?
Có những phút giây lòng xao xuyến
Nhớ về năm tháng đã đi qua

Tưởng tượng  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:07
Lượt xem 25020
Chỉ một bước thôi
Có thể là vực thẳm
Nhưng biết đâu, ánh sáng chói lòa?
Tôi cứ bước tới em (kỳ lạ)

Về một dòng sông  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:06
Lượt xem 19934
Nhớ bao năm nên gặp lại Thu Bồn
Tôi đứng lặng nhìn dòng nước chảy
Câu hát ấy và người con gái ấy
Điệp khúc lạ kỳ thường trực trong tôi

Về những con ốc biển  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:06
Lượt xem 22009
Những ngày thơ cùng với bạn bè
Trên bãi biển nhặt vỏ sò vỏ ốc
Những con vật tự bao giờ đã chết
Để lại khối xương trang sức cho đời

Về với Tây Sơn  - Thuận Hữu - Thơ

20/12/2014 19:05
Lượt xem 16458
Anh Về Tây Sơn buổi trưa
Chợ Phú Phong vắng người
Mấy túp lều ngái ngủ
Anh đứng bần thần góc phố chợ

Hiển thị 311 - 320 tin trong 2181 kết quả