Thơ

Nguyễn Minh Châu (1930-1989) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

22/12/2014 10:36
Lượt xem 29069

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Nguyễn Minh Châu (20 tháng 10 năm 1930 - 23 tháng 1 năm 1989) là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của đổi mới.

Tiểu sử

Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Theo lời kể của vợ ông, bà Nguyễn Thị Doanh, tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ".

Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972.

Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.

Sự nghiệp văn học

Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960-1989), khép lại với chuyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989, ông để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các tác phẩm chính của ông là Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983), Bến quê (truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...

Các tác phẩm chính

  • Cửa sông (tiểu thuyết, 1966)
  • Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970)
  • Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972)
  • Miền cháy (tiểu thuyết, 1977)
  • Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977)
  • Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982)
  • Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983)
  • Bến quê (truyện ngắn, 1985)
  • Mảnh dất tình yêu (tiểu thuyết, 1987)
  • Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (1987)
  • Cỏ lau (truyện vừa, 1989).
  • Nguyễn Minh Châu toàn tập (NXB Văn Học, 2001)

Đánh giá

  • Nhà văn Nguyễn Khải: "Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này".
  • Nhà phê bình Nikolai Nikulin: "Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh (Nguyễn Minh Châu) đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng".

chú thích

Các tác phẩm khác

Dỗ người đàn bà khóc chồng (Dỗ bạn khóc chồng)  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 08:06
Lượt xem 18492
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung(1)

Chiếc bách  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 08:05
Lượt xem 22673
Chiếc bách(1) buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,(2)
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.(3)

Mắng học trò dốt I  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 08:04
Lượt xem 12587
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ,
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

Không chồng mà chửa (Chửa hoang)  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 07:52
Lượt xem 16734
Cả nể cho nên hoá dở dang,
Nỗi niềm nàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,(1)
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.(2)

Hỏi trăng Ii  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 07:51
Lượt xem 14138
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,
Hở chị Hằng Nga đã mấy con?

Hỏi trăng  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 07:50
Lượt xem 16774
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ (1) đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích (2) khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung (3) cánh vẫn khòm.

Tát nước  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 07:48
Lượt xem 22996
Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.

Kẽm trống  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 07:46
Lượt xem 17173
Hai bên thì núi giữa thì sông.
Có phải đây là kẽm Trống Không?
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
ở trong hang núi còn hơi hẹp,

Hỏi cô hàng sách  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 07:43
Lượt xem 11203
Cô hàng lấy sách cắp ra đây!
Xem thử truyện nào thú lại say.
Nữ tú có bao xin xếp cả,
Phương hoa phỏng liệu có còn hay ...?

Vịnh cái giếng  - Hồ Xuân Hương - Thơ

19/08/2013 07:42
Lượt xem 15881
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi,(1)(2) giếng lạ lùng
Cầu trăng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.

Hiển thị 1841 - 1850 tin trong 2126 kết quả