Thơ

Nhìn từ xa tổ quốc  - Nguyễn Duy  - Thơ

08/01/2015 19:31
Lượt xem 17569

Ðối diện ngọn đèn trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng đêm bắc bán cầu vần vũ trắng nơm nớp ai rình sau lưng ta nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà xa vắng núi và sông và vết rạn địa tầng nhắm mắt lại mà nhìn thăm thẳm yêu và đau quằn quại bi hùng dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng cột biên giới đóng từ thương đến nhớ ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá ai cứ sau mình lẩn quất như ma

Ai? im lặng! Ai? cái bóng! Ai? xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng bóng máu bầm đen sóng soải nền nhà thôi thì ta quay lại chuyện trò cùng cái bóng máu mê ta có một thời ta mê hát đồng ca chân thành và say đắm Ta là ta mà ta vẫn là ta

vâng - đã có một thời hùng vĩ lắm hùng vĩ đau thương, hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm vâng - một thời không thể nào phủ nhận tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ ợ lên nhồn nhột cả tim gan Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh nỗi day dứt khôn nguôi còn sạn gót chân nhói dài mỗi bước

Ai? không ai! vết bầm đen đấm ngực xứ sở nhân tình sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng Mẹ liệt sỹ gọi con đội mồ lên đi kiện ma cụt đầu phục kích nhà quan

Ai? không ai! vết bầm đen quều quào giơ tay xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma ma quái - ma cô - ma tà - ma mãnh. quỷ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài đêm huyễn hoặc dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác mắt ai xanh lè lạnh toát lửa ma chơi

Ai? không ai! vết bầm đen ngửa mặt lên trời xứ sở linh thiêng sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh giấy rách mất lề Tượng Phật khóc, Ðức tin lưu lạc thiện - ác nhập nhằng công lý nổi lênh phênh

Ai? không ai vệt bầm đen tọa thiền xứ sở thông minh sao thật lắm trẻ con thất học lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương tuổi thơ oằn vai mồ hôi, nước mắt tuổi thơ oằn lưng xuống chiếc bơm xe đạp tuổi thơ bay như lá ngã tư đường bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng mở mắt... bóng nhân tài thất thểu

Ai? không ai vết bầm đen cúi đầu lặng thinh xứ sở thật thà sao thật lắm thứ điếm điếm biệt thự - điếm chợ - điếm vườn. điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn vật giá tăng vì hạ giá linh hồn

Ai? không ai vết bầm đen vò tai xứ sở cần cù sao thật lắm Lãn Ông lắm mẹo lãn công giả vờ lĩnh lương giả vờ làm việc tội lỗi dửng dưng lạnh lùng gian ác vặt đạo chích thành tôn giáo phổ thông ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn buôn hàng lậu - buôn quan - buôn thánh thần buôn tuốt quyền lực bày ra đấu giá trước công đường

Ai? không ai vết bầm đen nhún vai xứ sở bao dung sao thật lắm thần dân lìa xứ lắm cuộc chia ly toe toét cười mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa chen nhau sang nước người làm thuê biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về

Ai? không ai vết bầm đen rứt tóc xứ sở kỷ cương sao thật lắm vua vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chỉa vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa luật pháp như đùa - như có - như không một người đi chật cả con đường

Ai? không ai vết bầm đen gập vuông thước thợ ?.?.?.

Ai? Ai? Ai? không ai vết bầm đen còng còng dấu hỏi thôi thì ta trở về còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại còn chút gì le lói ở trong lòng đôi khi nổi máu lên đồng hồn thoát xác rũ ruột gan ra đếm chích một giọt máu đem xét nghiệm tý trí thức - tý thợ cầy - tý điếm tý con buôn - tý cán bộ - tý thằng hề Phật và Ma mỗi thứ tý ty khốn nạn thân nhau nặng kiếp phân thân mặt nạ thì lột mặt nạ đi - lần lữa mãi mà chi dù dối nữa cũng không lừa được nữa khôn và ngu cũng có tính mức độ bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít mất vệ sinh bội thực tự hào sự thật hôn mê - ngộ độc tự hào bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại biết thế nhưng mà biết làm thế nào chả lẽ bây giờ bắc thang chửi bới thấy chửi bới nhẹ gian nanh cơ hội chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại lạy ông cơ chế, lạy bà tư duy xin đừng hót những điều chim chóc mãi đừng lớn lời khi dân lành ốm đói vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn đổi mới thật hay giả vờ đổi mới? máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng? thật đáng sợ ai không có ai thương càng đáng sợ không còn ai ghét ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết

Ta là gì? ta cần thiết cho ai? có thể ta không tin ai đó dù có sao vẫn tin ở con người
dù có sao đừng khoanh tay khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn? những người tốt đang cần liên hiệp lại dù có sao vẫn Tổ Quốc trong lòng mạch tâm linh trong sạch vô ngần còn thơ còn dân

Ta là dân : vậy thì ta tồn tại giọt từng giọt nặng nhọc nặng nhọc thay dù có sao đừng thở dài còn da lông mọc còn chồi nảy cây

Moscow 5.1988

Các tác phẩm khác

Phan Châu Trinh (1872–1926) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 16:39
Lượt xem 21651
Phan Châu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1], người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, tự là Tử Cán.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn[12].

Phan Bội Châu (1867–1940) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 15:01
Lượt xem 24260
Phan Bội Châu (1867–1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San.[1] Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu.[2]Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam.
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế.

Nguyễn Vỹ (1912-1971) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 14:37
Lượt xem 26401
Nguyễn Vỹ (1912[1]-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca đương thời.
Nguyễn Vỹ sinh tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, năm 1945 lại đổi là Phổ Phong), huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Thuyên[2] từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để chống Pháp. Mẹ ông là bà Trần Thị Luyến.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh Long An)-Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.

Nguyễn Nhật Ánh (1955 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 10:52
Lượt xem 25425
Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam.

Nguyễn Duy (1948 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 10:42
Lượt xem 28522
Nguyễn Duy (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948), là một nhà thơ hiện đại Việt Nam
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa.

Mộng Tuyết (1914-2007) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 10:39
Lượt xem 19554
Mộng Tuyết (1914-2007), tên thật Thái Thị Úc; là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến.
Các bút hiệu khác của bà là: Hà Tiên cô, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ sĩ, Thất Tiểu Muội. Mộng Tuyết là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê và Trúc Hà.
Mộng Tuyết sinh ngày 9 tháng 1 năm 1914 ở làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên (nay thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang).
Mộng Tuyết mất ngày 1 tháng 7 năm 2007 tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.

Lý Tử Tấn (1378-1457) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 10:31
Lượt xem 25938
Lý Tử Tấn (tới khi đứng tuổi, ông mới đổi tên là Nguyễn Tử Tấn; 1378-1457), hiệu Chuyết Am; là quan nhà Lê sơ, và là nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ.
Lý Tử Tấn là người ở làng Triều Đông (sau đổi là Triều Liệt), huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh huyện Thường Tín, Hà Nội).
Ông mất năm 1457[2], thọ 79 tuổi.

Đỗ Phủ (712–770) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

06/01/2015 22:18
Lượt xem 25291
Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường.
Ông mất tại Đàm Châu 潭州 (nay là Trường Sa) vào tháng 11 hay tháng 12 năm 770, ở tuổi 59

Lý Thường Kiệt (1019-1105) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

06/01/2015 22:07
Lượt xem 21165
Lý Thường Kiệt[1] (chữ Hán: 李常傑; 1019 – 1105) là một danh tướng, một hoạn quan đời nhà Lý có công đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075-1077.
Ông là một vị tướng nổi tiếng nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
Tháng 6 năm Ất Dậu (1105), Thái úy Lý Thường Kiệt mất, thọ 87 tuổi.

Lý Bạch (701-762) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

06/01/2015 21:01
Lượt xem 23203
Lý Bạch (tiếng Trung: 李白; bính âm: Lǐ Bái / Lǐ Bó; 701[1]- 762) là một trong những nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung, được hậu bối tôn làm Thi Tiên. Ông đã viết hơn cả ngàn bài thơ bất hủ.[2]
Đến năm 762, vua Đường Đại Tông lên ngôi, cho người mời Lý Bạch nhưng trên đường đi thì nghe tin ông đã qua đời rồi. Tiểu truyện

Hiển thị 161 - 170 tin trong 2380 kết quả