Thơ

Tạ Tỵ (1921-2004) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

07/01/2015 17:08
Lượt xem 21871

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Tạ Tỵ (1921 - 2004), tên thật là Tạ Văn Tỵ; là một họa sĩ và còn là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.

Tiểu sử

Ông sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội. Nhưng trong giấy khai sinh của ông lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn mất một năm.

Từ khi còn là một sinh viên, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm. Năm 1941, nhờ nhận một giải thưởng tranh, ông được đến thăm kinh đô Huế.

Năm 1943, ông tốt nghiệp tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Và cũng năm này, bức tranh "Mùa Hè" của Tạ Tỵ đoạt một giải thưởng của Salon Unique.

Năm 1946, chiến tranh nổ ra giữa Việt NamPháp, Tạ Tỵ cùng với nhiều hoạ sĩ Việt Nam khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp và ông là người thầy dạy mỹ thuật đầu tiên trong Liên khu 3. Tác phẩm "Nhớ Hà Nội" năm 1947 (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.

Tháng 5 năm 1950, Tạ Tỵ rời khỏi vùng kháng chiến để trở về Hà Nội. Ông viết cho một người bạn rằng "Cách suy nghĩ của tôi không hợp với kháng chiến sau mấy năm chung sống với họ".

Bắt đầu từ đầu thập niên 1950, ngoài tài vẽ chân dung hí họa, ông còn sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác, như: truyện, thơ, kịch bản, bút ký...

Năm 1951, ông triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.

Sau 1954, ông vào Nam và sống ở Sài Gòn. Ở đây ông đã phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc sau cùng là trung tá trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị.

Năm 1956, ông triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn. Năm 1961, ông triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng cũng ở nơi đó.

Năm 1975, sau thời gian học tập cải tạo, ông cùng vợ con vượt biển đến Malaysia và đến định cư tại Hoa Kỳ.

Trong thời gian sống tại nước ngoài, Tạ Tỵ lại tiếp tục sáng tác. Năm 2003 sau khi vợ ông qua đời tại Hoa Kỳ, ông quyết định trở về Việt Nam với ước vọng sống những ngày cuối cùng ở quê hương mình.

Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004 (mùng 9 tháng 7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.

Tác phẩm

Hội họa

  • Năm 1951: triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.
  • Năm 1956: cuộc triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn.
  • Năm 1961: Cuộc triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng ở Sài Gòn.

Tác phẩm của ông được trưng bày tại nhiều bảo tàng viện nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New YorkParis

Văn chương

  • Những Viên Sỏi (tập truyện), NXB Nam Chi Tùng Thư 1962
  • Yêu Và Thù (tập truyện), NXB Phạm Quang Khai 1970
  • Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (nhận định văn học), NXB Nam Chi Tùng Thư 1970
  • Phạm Duy Còn Ðó Nỗi Buồn, NXB Văn Sử Học 1971
  • Cho Cuộc Đời (thơ), NXB Khai Phóng 1971
  • Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Nhận định văn học), NXB Lá Bối 1972
  • Bao Giờ (tập truyện), NXB Gìn Vàng Gởi Ngọc 1972
  • Ý Nghĩ (tạp văn), NXB Khai Phóng 1974
  • Ðáy Ðịa Ngục (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1985
  • Những Khuôn Mặt Văn Nghệ - Đã Ði Qua Ðời Tôi (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1990
  • Xóm Nhà Tôi (tập truyện), NXB Xuân Thu 1992
  • ...

Nhận xét

Tạ Tỵ là một nghệ sĩ đa tài. Ban đầu ông có vẽ sơn mài, cùng thời kỳ với những họa sĩ như Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm... Nhưng ông được biết đến nhiều hơn cả khi đi theo trường phái tranh lập thể. Theo họa sĩ Trịnh Cung, Tạ Tỵ là người gắn bó và đi đầu trong phong cách hội họa lập thể ở Việt Nam từ thập niên 1940 đến 1960. Sang thập niên 1970, ông chuyển sang phong cách trừu tượng.

Tuy sống trong thời kì hai miền Việt Nam chia cắt, nhưng người ta không tìm thấy bóng dáng chiến tranh trong hội họa Tạ Tỵ. Một mảng tranh được công chúng biết đến nhiều là những bức ký họa do Tạ Tỵ vẽ về những nghệ sĩ mà ông quen biết. Những bức chân dung các nghệ sĩ như Đái Đức Tuấn, Vũ Hoàng Chương, Trịnh Công Sơn... có thể tìm thấy nhiều trên sách báo miền Nam Việt Nam trước 1975 và được giới nghệ sĩ đánh giá cao.

Ngoài hội hoạ, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện, thơ, kịch bản, bút ký... Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Tạ Tỵ đã để lại nhiều tác phẩm với các thể loại khác nhau.

Ðề tựa cho tuyển tập truyện ngắn Những Viên Sỏi của Tạ Tỵ xuất bản lần đầu tiên, Nhà văn Nguyễn Hoạt viết: "Tôi nhận thấy trong con người Tạ Tỵ cũng như trong tác phẩm văn chương của anh, cái đáng yêu nhất, đáng quý nhất vẫn là 'Tình Thương' chân thành, một 'Tình Thương' do sự khích động qua xúc cảm mà bật ra, chứ không phải là một thứ văn chương hời hợt, giả tạo."

Tranh Tạ Tỵ

Năm 1951, Tạ Tỵ triển lãm tranh tại Hà Nội, có lẽ bức tranh sơn dầu mang tên Cô Đơn (67 x 54.5 cm) đã có mặt.(xem ảnh) Bức tranh Cô Đơn được nhà Sotheby đấu giá hồi tháng 4 năm 2000, và bán được với giá khá cao: 19.550 Singapore dollars.

Trong catalogue của Sotheby đã nhận xét bức tranh:

"Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ. Tác giả sử dụng tài tình những màu sắc mạnh mẽ, đặt nhân vật ngay vào ngay trung tâm bức tranh, những hình thể kỹ hà, chẳng hạn như việc xử lý mái tóc không tuân theo luật đăng đối, đường nét mạnh bạo của chiếc cổ và sự sắp xếp của khăn quàng thành những mặt cắt của một hình kim cương… tất cả bố cục này tạo thành một bức tranh Lập Thể độc đáo."

Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt 50 chân dung của các nhân vật văn nghệ miền Nam Việt Nam. Đây là loạt tranh chân dung đầu tiên thể hiện những cá nhân độc đáo, trong một phong cách đặc biệt. Sự phối hợp truyền thần và phong cách Lập thể, những mảng màu tương phản gắt gao cắt nhau, nhằm bộc lộ cá tính và nghề nghiệp của nhân vật.

Như bức tranh Chân dung Vi Huyền Đắc là một ví dụ. Vi Huyền Đắc vừa là nhà ngôn ngữ học, tự vị học và nhà viết kịch. Nhưng nơi con người có nhiều khả năng này, Tạ Tỵ đã chọn "nhà viết kịch" để thể hiện Vi Huyền Đắc: chân dung được trình bày bên cạnh bức màn sân khấu đỏ rực, cứ như Vi Huyền Đắc đang ở bên cánh gà.

Bức Mùa hè đỏ lửa (1972, 350 x 170 cm), khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam, bức tranh được đổi tên Cất Cánh, vẽ theo phong cách trừu tượng, được treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1998. Đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của nhà bảo tàng này.

Thơ Tạ Tỵ

Thương về năm cửa Ô xưa
Tôi đứng bên này vỹ tuyến
Thương về năm cửa Ô xưa
Quan Chưởng đêm tàn dẫn lối
Đê cao hun hút chợ Dừa
Cầu Rền mưa dầm lầy lội
Gió về đã buốt lòng chưa?
Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ
Nhị Hà lấp lánh sao thưa
Cầu Giấy đường hoa phượng vĩ
Nhớ nhung biết mấy cho vừa...
Cửa Ô ơi, cửa Ô
Năm ngả đường đất nước
Trôi từ vạn nẻo sông hồ
Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội
Gục đầu nhớ tiếng võng đưa!...
Có biết chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy xuôi ý đẹp
Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người
Tê tái tiếng cười
Từng cánh hoa đời khép lại
Thương về năm cửa Ô xưa!...
Câu chuyện ngày xưa
(Trích)
...Một buổi em đi mười chín
Lấy chồng Kinh Bắc xa xôi.
Đồi núi chập chùng mở hội,
Gió về se lạnh lòng tôi.
Gác nhỏ giã từ tưởng vọng
Mưa về quằn quại tiếc thương
Đâu giấc mơ tình dằng dặc?
Nhìn qua ô cửa mười phương...
...Em lại trở về buồng cũ
Bên chồng ôm ấp con thơ.
Tôi lại trở về gác nhỏ,
Nhìn em như chẳng bao giờ.
Nhưng thôi còn đâu buổi ấy
Tôi ngồi dằn bút lòng đau.
Gác cũ trơ vơ gạch ngói,
Kinh thành tang tóc lên mầu.
Phố nhỏ nằm trơ nắng rãi
Bóng nghiêng cây đổ đường dài.
Lớp lớp nhà xiêu bụi trắng,
Mùa thu tím sắc lòng ai?
Em có về đây một buổi
Tôi chờ đã héo mầu hoa.
Năm tháng phai xanh tàn tạ,
Hờ ơi, thuở ấy đâu mà ?...
(Hà Nội, 1952)

chú thích

Các tác phẩm khác

Truyện Kiều 1901-1950 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:28
Lượt xem 14273
1901 “Ví chăng có số giàu sang.
1902 “Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
1903 “Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
1904 “Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời!”

Truyện Kiều 1951-2000 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:27
Lượt xem 14615
1951 “Quản chi lên thác xuống ghềnh,
1952 “Cũng toan sống thác với tình cho xong.
1953 “Tông đường chút chửa cam lòng,
1954 “Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.

Truyện Kiều 2001-2050 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:26
Lượt xem 8032
2001 “Ngăn tôi đứng lại một bên,
2002 “Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.”
2003 Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
2004 “Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!

Truyện Kiều 2051-2100 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:25
Lượt xem 13381
2051 “Chỉn en đường sá một mình,
2052 “ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày,”
2053 Gửi thân được trốn am mây,
2054 Muối dưa đắp đổi, tháng ngày thong dong,

Truyện Kiều 2101-2150 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:24
Lượt xem 8073
2101 “Nơi gần,thì chẳng tiện nơi,
2102 “Nơi xa,thì chẳng có người nào xa.
2103 “Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà.
2104 “Cùng trong thân thích ruột rà,chẳng ai.

Truyện Kiều 2151-2200 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:23
Lượt xem 19716
2151 Chém cha cái số hoa đào,
2152 Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
2153 Nghĩ đời mà ngán cho đời,
2154 Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!

Truyện Kiều 2201-2250 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:21
Lượt xem 9013
2201 “Khen cho con mắt tinh đời,
2202 “Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
2203 “Một lời đã biết đến ta,
2204 “Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Truyện Kiều 2251-2300 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:20
Lượt xem 14901
2251 Ngất trời, sát khí mơ màng,
2252 Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
2253 Người quen kẻ thuộc chung quanh,
2254 Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.

Truyện Kiều 2301-2350 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:19
Lượt xem 9515
2301 Mấy người phụ bạc xưa kia.
2302 Chiếu danh tầm nã, bắt về hỏi tra.
2303 Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
2304 Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.

Truyện Kiều 2351-2400 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:18
Lượt xem 13818
2351 Nàng rằng: “Xin hãy rốn ngồi,
2352 “Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!”
2353 Kíp truyền chư tướng hiến phù.
2354 Lại đem các tích phạm tù hậu tra.

Hiển thị 1741 - 1750 tin trong 2223 kết quả