Thơ

Thanh Tịnh (1911-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

22/12/2014 10:42
Lượt xem 35621

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Thanh Tịnh (1911-1988), tên thật là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh), là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút danh khác của ông là: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945).

Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911[1] tại xóm Gia Lạc,ven sông Hương, ngoại ô Huế.

Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán đến năm 11 tuổi, thì theo học chữ Quốc ngữ tại trường tiểu học (trường Đông Ba) và trung học (trường Pellerin của giáo hội Thiên Chúa giáo) ở Huế.

Đỗ bằng Thành chung, năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo Phong hóa, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị, Tinh Hoa...Sáng tác đầu tay của ông là truyện "Cha làm trâu, con làm ngựa" đăng trên Thần kinh tạp chí (1934).

Năm 1936, Thanh Tịnh cho xuất bản tập thơ Hận chiến trường.

Năm 1941, ông và hai bài thơ của ông ("Mòn mỏi" và "Tơ trời với tơ lòng") được Hoài Thanh- Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Thanh Tịnh làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ.

Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Sau đó, ông tham gia phụ trách đoàn kịch Chiến Thắng của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Năm 1945, ông tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau, ông thôi làm lãnh đạo, để chuyên sáng tác.

Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), và trở thành Ủy viên Ban chấp hành Hội khóa I, II.

Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, và mang cấp bậc Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam trước khi nghỉ hưu.

Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế.

Tác phẩm

Tác phẩm của Thanh Tịnh đã xuất bản:

Trước 1945

  • Hận chiến trường (thơ, 1937)
  • Quê mẹ (truyện ngắn, 1941)
  • Chị và em (truyện ngắn, 1942)
  • Ngậm ngải tìm trầm (truyện ngắn, 1943)

Sau 1945

  • Sức mồ hôi (thơ và ca dao, 1954)
  • Những giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1956)
  • Đi từ giữa mùa sen (truyện thơ, 1973)
  • Thơ ca (thơ, 1980)
  • Thanh Tịnh đời và văn (1996).

Tặng thưởng

Nhà thơ Thanh Tịnh đã được tặng thưởng:

  • Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951-1952) cho những bài độc tấu xuất sắc.
  • Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2007.

Ngoài ra, ông còn là người chiếm giải nhất (bài Lời cuối cùng) đồng hạng với nhà thơ Phạm Đình Bách trong cuộc thi thơ tháng Hai do báo Hà Nội báo tổ chức năm 1936[2].

Nhận xét

Khi đi học, Thanh Tịnh đã ham thích văn chương. Hai nhà văn PhápAlphonse Daudetiega MalebiGuy de Maupassantalieniment có ảnh hưởng không nhỏ đến văn phong của Thanh Tịnh sau này. Tuy nhiên, ông không thành công trong lĩnh vực viết truyện dài (Xuân và sinh, 1944), nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Trước 1945, thơ ông mang phong cách lãng mạn đậm nét. Trong những bài tiêu biểu như Tơ trời với tơ lòng, Vì đàn câm tiếng, Muôn bến, Rồi một hôm...đều mượt mà, tinh tế, hàm súc nhưng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống văn hóa, tinh thần xứ Huế. Trong các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943) đều có nhiều truyện đẹp, trong sáng và gợi cảm.

Sau 1945, trong kháng chiến, Thanh Tịnh đã khai sinh ra hình thức độc tấu. Nó thường là một bài văn ngắn, có tính chất tự sự, hoặc là đề cập đến những vấn đề thời sự và xã hội. Ngôn ngữ của tấu thường giản dị pha chút dí dỏm. Cách diễn đạt thường là nói, ngâm hay hát hò chỉ là phụ... Thơ trữ tình của Thanh Tinh từ 1945 trở về sau, nhìn chung không nổi bật. Ông viết thiếu lắng đọng, thiếu tinh tế, trừ một số bài viết theo phong cách lãng mạn mà ông đã thành công trước đây...[3]

chú thích

Các tác phẩm khác

Câu chuyện người thương binh  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

18/12/2014 00:03
Lượt xem 21655
Tôi gặp anh trong quán nghèo phố nhỏ
Một buổi chiều có lắm lá me bay
Cùng tâm sự nên hòai niệm cả hai
Màu áo trận còn vương mùi khói súng

Những mảnh đời khốn khổ  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

18/12/2014 00:01
Lượt xem 18211
Bên đống rác buổi trưa hè gay gắt
Một mái đầu còn trong trắng ngây thơ
TuổI của em chỉ đứa bé dại khờ
Nhưng nào biết lớp trường và sách vở

Nỗi lòng của mẹ  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

18/12/2014 00:00
Lượt xem 24064
Mẹ buồn ánh mắt xa xăm
Trông về quê ngọai phía ngang lưng trời
Bao năm cô lẻ xứ người
Âm thầm lây lất cuộc đời tha hương

Nỗi buồn của cây  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:58
Lượt xem 20400
Từ trong lòng đất
Hiện lên một màu xanh
Chỉ có lá không có cành
Vươn mình lớn lên cùng mưa gió

Dòng sông thơ  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:56
Lượt xem 24183
Anh muốn gởi
Vào thơ, hình ảnh của mẹ và em
Để làm những giấc mơ êm đềm
Cho cuộc đời đầy nhiễu nhương danh lợi

Chỉ là ví dụ  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:54
Lượt xem 24542
Anh chỉ ví dụ thôi nhé
Trên tay em là một con dao
Trái tim anh rạch lấy một đường sâu
Gục xuống có quên đi nỗi nhớ

Bên giậu tím buồn  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:54
Lượt xem 24884
Nhà tôi có giậu mồng tơi
Có hàng dăm bụt tím ngời bên nhau
Nhà em có một giàn trầu
Có cây so đũa hàng cau xanh buồng

Tiếng võng trưa hè  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:53
Lượt xem 12468
Thuở nào nhịp võng ru đưa
Em nằm xõa tóc giữa trưa mùa hè
Ơ ầu tiếng vọng êm nghe
Gió hiu hiu thổi khóm tre sau vườn

Lý tình ghen  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:50
Lượt xem 23896
Hò...ơ...ớ...ơ

Thì qua cũng một lòng mà
Cớ sao bậu lại...hò ơ..ớ..ơ..hờn xa dỗi gần

Lý ngò ôm  - Lưu Vĩnh Hạ - Thơ

17/12/2014 23:49
Lượt xem 16843
Con cá rô ngược dòng sông lách nước
Qua nhớ bậu qua vòng xuống đi lên
Ra bờ ao ngồi đó có mình ên
Tay ngắt hết đám ngò vừa xanh lá

Hiển thị 1041 - 1050 tin trong 2148 kết quả