Thơ

Đêm liên hoan  - Hoàng Cầm  - Thơ

08/01/2015 20:37
Lượt xem 40253

Anh ơi ! Đêm nay đầu người nhấp nhô như gợn sóng
Đang trào lên sức sống muôn đời
Niềm vui bát ngát trăng soi
Mảnh trăng úa máu chân trời Việt Nam
Đêm Liên Hoan ! Trời ơi, đêm Liên Hoan !
Đầu người nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét như vỡ toang lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Việt Chính Đoàn
-- Anh từ phương nào lại ?
-- Tôi từ đất dấy lên
Anh có nghe ngọn thủy triều Đông Hải
Đang hờn ghen cùng thúc máu triền miên
Thúc máu không tên dội tràn bốn nẻo
Cỏ không gầy, cây không già, hoa không héo
Ngàn năm đất nước vững bền
-- Anh từ phương nào lại ?
-- Tôi từ đất dấy lên
Chúng ta cùng một mẹ hiền
Lúa thơm bầu sữa bông mềm áo tơ
Chúng ta chung một mối thù
Gươm tung uất hận đạn vù đắng cay
-- Anh đi từ đâu đến đó ?
-- Tôi đi giết giặc đây
Đêm nay gặp bạn cùng nhau chén
Máu giặc đang nồng ta phải say
Đây ruộng đồng Trung Nam
Kia núi rừng Việt Bắc
Cỏ cây đang căm hờn như vùng lên đuổi giặc
Tôi với anh gặp nhau trong ngày hội Liên Hoan
Tay bắt tay, mừng trên giải đất Việt Nam
-- Gia đình anh ở đâu ?
-- Mẹ hiền tôi đã khuất
Nhưng trước khi nhắm mắt
Mẹ mừng cho đàn con
Máu tôi mai sẽ chảy
Trôi phăng hết kiếp ngựa trâu
Xương tôi, tôi bắt nên cầu
Cho đàn con bước lên lầu Tự Do !
-- Anh giết bao nhiêu giặc mà mắt anh long lanh ?
-- Mời anh lên rừng xanh
Hỏi những cành lá biếc
Rừng âm u đang tưng bừng mở tiệc
Bằng thịt, xương và máu của quân thù
-- Trong tiểu đội anh, những ai còn ai mất ?
-- Không, không ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi !
Kẻ trước người sau lao vào giặc
Giữ vững ngàn thu một giống nòi
Dù cho thịt nát xương phơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam !
Đêm Liên Hoan, trời ôi, đêm Liên Hoan !
Đầu người nhấp nhô như sóng vỗ ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ toang lồng ngực
Vì say sưa tình thắm thiết Việt Chính Đoàn
Người bạn mến thương ơi !
Nắm chặt lấy tay tôi
-- Kìa, sao anh lại khóc ?
-- Tôi quá mừng anh đó thôi !
Lần thứ nhất trên đời
Tôi quay cuồng nhảy múa
Giặc kia ơi ! Không bao giờ còn nữa
Ta đếm từng ngày
Ta trông từng phút, ta đợi từng giây
Lửa hờn nghi ngút chờ người đêm nay
Chờ người đến đây
Ta băm, ta giết !
Giặc kia phải chết
Núi đồng phơi thây
Anh đi hỏi núi
Anh về hỏi cây
Anh hỏi biển rộng
Anh hỏi sông dài
Anh hỏi ngô non
Anh hỏi lúa bé
Anh đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ
Rằng ta là Việt Chính Đoàn
Đêm nay say tiệc liên hoan
Ngày mai xé xác moi gan quân thù !
Tiệc liên hoan lại tưng bừng hiển hiện
Giữa đoàn quân bách chiến
Đổ về thủ đô như nước vỡ bờ !
Từ mũi Cà Mau cho đến biên giới Lạng
Từ nắng sớm Sơn La cho đến mưa chiều Vạn Tượng !
Muôn đội đội hùng binh phất phới cờ bay
Đoàn quân bách chiến đi suốt đêm ngày
-- Mẹ ơi ! Con đã về đây !
Chị hiền từ tốn đưa tay đón mừng...
...Anh ơi ! Anh tỉnh lại
Nước mắt tôi rưng rưng
Hình như tôi đã mơ màng
Phải rồi, anh Việt Chính Đoàn
Đêm nay say tiệc Liên Hoan
Ngày mai xé xác moi gan quân thù
Bao giờ thu lại tới thu
Liên Hoan bừng nở bốn mùa Non Sông !

Các tác phẩm khác

Cao Thoại Châu (1939...) -Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

27/12/2014 14:00
Lượt xem 18622
Cao Thoại Châu tên thật là Cao Ðình Vưu, sinh năm 1939 tại Giao Thuỷ, Nam Ðịnh, di cư vào Nam năm 1954. Bút hiệu của ông được ghép từ chữ Thoại là chữ lót trong tên của người bạn gái gốc Hoa và chữ Châu trong tên tỉnh Châu Đốc mà thành. Ông còn có các bút danh khác là Tiểu Nhã, Hư Trúc.
Hiện nay nhà thơ đã nghỉ hưu, ông tiếp tục sống và sáng tác tại Long An.

Nguyễn Trãi (1380 - 1442) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:49
Lượt xem 31245
Nguyễn Trãi (阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋) sinh năm 1380 mất năm 1442, tại làng Chi Ngại, huyện Chí Linh (nay là thị xã, Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, người làng Chi Ngại, một nho sĩ hay chữ nhưng nghèo và mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba[2] của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán[3]. Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ và gia quyến đều bị tru di tam tộc. Vị khai quốc công thần đã kết thúc cuộc đời ở tuổi 63 trong một hoàn cảnh bi phẫn và oan khuất.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:48
Lượt xem 46324
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt[1], tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân cư sĩ[2], được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.

Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:47
Lượt xem 23729
Đoàn Thị Điểm[1] (段氏點, 1705-1748), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ(紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập truyện Truyền kỳ tân phả, và là dịch giả bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn.
Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Sương Nguyệt Anh.

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:47
Lượt xem 26483
Bà Huyện Thanh Quan (chữ Hán: 婆縣清觀, 1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh; là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam[1].
Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội[2]. Thân phụ là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.

Nguyễn Du (1765 - 1820) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:47
Lượt xem 23294
Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; Sinh năm Ất Dậu 1765– mất năm Canh Thìn 1820) tên chữ Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm ngày sinh của ông [1][2].

Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:46
Lượt xem 31786
Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là nhà thơ Nôm nổi tiếng cuối thế kỷ 18, đầu thể kỷ 19 (1772-1822). Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Lê Ngọc Hân (1770-1799) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:46
Lượt xem 22672
Lê Ngọc Hân (chữ Hán: 黎玉忻, 1770-1799) còn gọi Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu (北宮皇后) là công chúa nhà Hậu Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, vợ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Dân gian còn lưu truyền tên gọi bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên.[1]
Lê Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại kinh thành Thăng Long [2]. Bà là con gái thứ 9 [3] của vua Lê Hiển Tông. Mẹ bà là Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, là người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn - Bắc Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội), và là con gái trưởng của ông Nguyễn Đình Giai.
Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4 tháng 12 năm 1799) thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.

Cao Bá Quát (1809 - 1855) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:46
Lượt xem 27695
Cao Bá Quát (chữ Hán: 高伯适; 1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương[1], và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ông là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay thuộc quận Long Biên Hà Nội.

Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:46
Lượt xem 19931
Nguyễn Đình Chiểu (chữ Hán: 阮廷沼; 1822-1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19 [1].
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới [2], phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng [14], hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông [15].

Hiển thị 271 - 280 tin trong 2441 kết quả