Đường tới thành phố (2) - Hữu Thỉnh - Thơ
Chương hai: Tư lệnh
Một lần lỡ hẹn
Anh giở bức hình chụp những năm còn trẻ
Anh ngó ngơ như một kẻ lạ xa
Ai trong đó? Sao mà cười hỉ hả
Sao vô tư, sao mập ú vậy à?
Hắn khao khát những gì?
Ai đang chờ đợi hắn?
Chỉ tình yêu là đáng kể thôi chăng?
Hai mươi năm anh khó nhận ra mình
Người trong ảnh bây giờ là Tư lệnh
Khoảng cách giữa anh và bức ảnh
Có bao quãng đường những bà mẹ tiễn con
Có lầy lội quãng đường sau rút Huế
Có băn khoăn trước hứa hẹn chưa thành
Đơn vị sa lầy trong chiến khu A Lưới
Bao éo le theo nước lũ xô về
Những chiếc xe tăng đòi anh nguyên vẹn
Những vết thương đòi anh lành lặn
Và anh
ý nghĩ lăn qua viên đạn cuối cùng
Giặc đổ quân sau rừng
ủi và đốt
Cây thở dài trên đất
Tàn bay tung
"Cán gáo" (1) thõng đôi càng
Man rợ xoáy
Đóng đinh vào chân tóc
Bới rừng lên
Thả xuống lời ngon ngọt
- "Hỡi cán binh cộng sản, hãy ra hàng
Tổng thống sẽ
Tổng thống sẽ
Tổng thống sẽ..."
Thơm tho và ngọt xớt
Đảo nửa vòng lại ngọt xớt thơm tho
Rừng quay mặt nghe gió bò trên đá
Bò trên rêu
ẩm ướt
Trên lưng
Lời dụ hàng tuôn đầy xuống hố bom
Núi dựng ngược ném trả vào mặt giặc
Chiếc "cán gáo" đứng im
Lại buông lời trơ trẽn
- "Đây, xin mời để các anh lựa chọn"
Nó dòng xuống xác một người đồng chí
Bị chặt đầu
Chân còn dép, chân không
Máu anh bỏng xuống núi ngàn
Đời anh treo một dấu than giữa trời
Kẻ thù cách một gang thôi
Phải dằn súng lại. Cắn môi tìm đường
Thắt trắng một mảnh dù
Tư lệnh đạp rừng cho lái xe nhận hướng
Hai vết thương vì rừng, ba vết thương vì pháo
Trong cái đêm mở đường máu phá kìm
Đôi quân hàm nỉ đỏ mới nguyên
Vẫn tính vào duyệt binh ở Huế
Anh giấu đi không hề nói với ai
Nhưng với vợ làm sao giấu được
Không phải hai mà mười bốn năm rồi
Anh đanh lại, anh nấu nung như thế
Lõi lim già mưa nắng lẩn vào trong.
Thứ hoa đẹp nhất
Anh trao thầm bàn tay anh cho tôi
Bàn tay nóng tôi nhận vào cơn sốt
Tôi vét mãi mới tìm ra hạt thóc
Hạt thóc gầy ram ráp cứa vào đêm
Chúng tôi đi mót cuối bìa rừng
Giặc vừa rút sau một ngày rình rập
Gió ầm ào qua nương
Những bông lúa chỉ còn là bã gió
Chúng tôi tuốt phồng tay
Chúng tôi còn tuốt nữa
Hạt thóc nhằn ấm cả đêm suông
Đất rừng mênh mông
Đất núi mênh mông
Đất nhiều thế mà hiếm hoi hạt thóc
Chúng tôi nhìn dúm thóc trên tay
Những hạt thóc đã biến thành thuốc quý
Thóc hóa con đê ngăn cái chết dần mòn
Tôi hiểu vì sao anh đã khóc
Trong một sáng giao ban
- Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả
Cứ đói ròng con gái hóa con trai
Cám ơn ngọn rau dựng người ốm dậy
Cám ơn con suối, cám ơn bờ khe
Con tép chết bom từ bến ngược trôi về
Nếu không đói không thể nào vớt được
Phát một mảnh rừng, trần lưng cuốc cuốc
Cuốc và vun rồi kéo cỏ ngụy trang
Anh nhón tay cắm hạt bí đầu tiên
Đêm mở cỏ đêm lần đi tưới nước
Hoa bí đỏ từ vạt nương Tư lệnh
Đổ dần sang khắp cứ bạn ngàn
Anh xoa xuýt trước màu hoa cứu đói
Đấy, thứ hoa đẹp nhất của đời anh.
- Cơn đói đi qua không để lại mảnh gì làm di vật
Không phải trận bom nên không dễ sưu tầm
- Kiên nhẫn chút, hỡi nhà viết sử
Đây, căn hầm Tư lệnh, hãy vào thăm
Hãy nắm chặt bàn tay mót thóc
Nhìn mái đầu quá nửa chẳng còn xanh
Những sợi tóc đứng yên mà ta nhìn thấy bão
Bao thăng trầm như sóng đánh qua anh
Câu chuyện trong hầm
- Nắng mưa làm ảnh mờ đi
Hình như anh chụp trước khi xuống tàu?
Hình như ở xóm Vườn Trầu
Có người chị, mối tình đầu của anh?
- Mình đang làm sử chiến tranh
Có cần nghe một mối tình dở dang?
- Quân ta áp với đồng bằng
Tim ta đập với bâng khuâng ngày về
Chuyện này xung kích được nghe
Anh xem, khẩu súng nói gì trong đêm
Với người ta có gì đem
Với ta khao khát gì thêm một ngày
Phải đâu câu chuyện riêng tây...
- ... Hai mươi năm, nói gì đây bây giờ
Nhà mình do má tìm cho
Nết ăn nết ở cũng do má tìm
Một lô bánh quế má đem
Mình về một buổi nên duyện, cậu à
Tối ăn một bữa ở nhà
Sáng bên ngoại... thế là xa một lèo.
- Một ngày vừa biết vừa yêu
Vừa xin vừa cưới cũng liều đấy anh?
- Một ngày sợi chỉ mong manh
Giữ sao khỏi đứt cho mình được đây
Mình đi vui bạn vui bầy
Khi việc bận lại mong ngày đừng nhanh
ở nhà dài những năm canh
Từ bậu cửa bước xuống sân cũng dài
- Những năm tập kết ở ngoài
Tin nhà tin chị có ai nhắn cùng?
- Những năm ở Bắc thì không
Vô Nam cơ sở nằm vùng báo cho
Quê mình giáp mé ven đô
Bả đi hoạt động phải vô vườn trồi
Lá thư chữ đứng chữ ngồi
Viết thầm tránh địch đang soi ngoài bàu
Vài dòng kể chuyện đâu đâu
Mình nghe tội nhất là câu cuối cùng
"Chúng em chẳng sợ địch lùng
Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài"
Vài dòng từ dạo Bảy hai (2)...
- Chị không kể bốn năm đày, hả anh?
- Tù về mắc bệnh động kinh
Mình nghe nói chớ bả làm thinh hoài hoài
Để cho mình được thảnh thơi...
ầm ầm bom cắt ngang lời của anh
Đá bay ném cắc trên cành
Đèn câm ngọn bấc hầm thành mông lung
Chuyện này đất có nghe chung
Tôi nhường cho đất kể cùng mai sau.
Văn xuôi một người lính
Chúng tôi có những kỷ niệm riêng, những bài học, những điều để nghĩ
Chúng tôi đầy rừng, tắm giặt, hái rau, đào hầm, mơ mộng, sống đời thường suốt cuộc chiến tranh, yêu đời lính yêu luôn gian khổ.
Lính Sáu chín, lính Bảy hai, lính tái ngũ còn giữ nguyên chức vụ quân hàm, ríu rít giọng Nam, giọng Bắc; lính xe tăng đột phá, lính pháo binh cõng lửa qua sông, làm sao anh quen, làm sao anh nhớ hết;
Làm sao có thể gọi tên hàng vạn người trong một chữ nôm na như cây rìu cây rựa khi chúng tôi cắm chân giữa ba mặt kẻ thù; điện thoại chôn ngầm dưới đất, chằng chịt rễ cây chiến dịch, mệnh lệnh truyền qua suối, qua nương
Dù hăm hở đến đâu, bước chân anh cũng không sao đến được các trung đoàn. Trung đoàn hành quân, trung đoàn tăng gia, trung đoàn vây lấn, trung đoàn luồn sâu vu hồi đánh úp, xé kẻ thù trong thế cài răng lược khắp Tây Nguyên.
Chẳng cần phép gì đâu, anh vẫn đến được từng người, làm quen và trò chuyện, chỉ cần anh có mặt đúng giây phút chẳng bao giờ lặp lại, đến đúng nơi những người quyết đoán không ngờ
Nhưng đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn; xin hãy viết như dòng sông chảy xiết.
Và chúng tôi với chiếc bi đông bẹp dúm kia là một, cả những hòn đá kê nồi cũng có bao điều ấm lạnh liên quan
Cứ như thế dần dà từng giọt, âm thầm như thạch nhũ trong hang (phải có gan mới có thể âm thầm), chính kiên nhẫn sẽ cho anh đến sớm
Tư lệnh nói: Nếu phải vứt thì phải vứt quần áo chứ cấm ai vứt chỉ
Tư lệnh nói: Một nắm cỏ ngụy trang có thể làm người đào hầm bị chết
Tư lệnh nói: Một đại đội thám báo dò đường không tinh bằng viên thuốc đánh rơi
Nếu anh bắt đầu từ đó
Chẳng còn dòng sông nào ngăn anh gặp chúng tôi.
Thơ của Chính ủy sư đoàn
Sư đoàn mở đường sau Hiệp định Pa-ri
Bộc phá nổ cuối khu đồi tranh chấp
Vách núi sạt, nặng nề xe ủi đất
Máy bay rà u u trên không
Những bụi chuối cành le héo quắt
Căng mình ra ôm lấy con đường
Hầm thì sâu nhưng lán buộc tuềnh toàng
Lán để nhớ, người ở trong bom đạn
Xe cút kít quay từng vòng kiên nhẫn
Cho con đường đến gặp các dòng sông
Đèo thấp dần trước quang sọt thô sơ
Sông hẹp bớt, cầu treo trong lũng thấp
Kẻ thù tung quân bình định bên trong, dũi chốt vòng ngoài
Chúng xả súng vào mái "nhà hòa hợp" (3)
Không có hòa bình đâu, vành mũ quá mong manh
Giặc nghiến nát dưới hai hàng xích sắt
- Những chai rượu ngon chưa phải mở lúc này
Tư lệnh nói, xắn quần lên trọng điểm
Mưa tối mặt, áo quần dán chặt
Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi
Đường xuyên qua vành đai
Chạy thít tắp trong tầm nhìn Tư lệnh
Anh dám nhận những hiểm nghèo thử thách
Cũng có khi từ bốn góc bàn
Để có một con đường
Mở vào lúc chiến trường vơi tiếng súng
Anh xa lạ với cầu an, nghe ngóng
Đường với anh là cách hiểu kẻ thù
Đường đưa anh đến bãi mìn phòng thủ các vành đai
Tự nghe mình trước hàng rào thứ nhất
Đó là khi trái tim mang sức mạnh cảm thông
Cho anh gặp nỗi niềm bao bà mẹ
Đó là lúc những cuộc đời chiến sĩ
Cứ đan vào bền chặt với đời anh
Và cứ thế
Sư đoàn
Hành quân lên tuyến một.
---
(1). Một loại máy bay trực thăng của Mỹ
(2). 1972
(3). Nhà dựng ở tiếng giáp ranh, sau Hiệp định Pa-ri 1973 về Việt Nam, nơi tiếp xúc giữa bộ đội ta và ngụy quân.
chương C - đoạn C2 - khổ C2/2 - Đặng Trần Côn - Thơ
chương C - đoạn C3 - Đặng Trần Côn - Thơ
chương C - đoạn C4 - khổ C4/1 - Đặng Trần Côn - Thơ
chương C - đoạn C4 - khổ C4/2 - Đặng Trần Côn - Thơ
chương C - đoạn C4 - khổ C4/3 - Đặng Trần Côn - Thơ
chương C - đoạn C4 - khổ C4/4 - Đặng Trần Côn - Thơ
chương C - đoạn C4 - khổ C4/5 - Đặng Trần Côn - Thơ
Đôi hồn - Mai Đình - Thơ
chương C - đoạn C4 - khổ C4/6 - Đặng Trần Côn - Thơ
chương C - đoạn C5 - Đặng Trần Côn - Thơ
Hiển thị 121 - 130 tin trong 1722 kết quả