Thơ

Lệ chi hận sử (03)  - Lý Tử Tấn (Nguyễn Gia Linh)  - Thơ

07/01/2015 19:50
Lượt xem 22873

An Nam Quốc Vương

Lê Thái tổ trào trung triệu tập
Để tìm người đối đáp Minh Triều
Từ khi nuốt hận trăm điều
Vẫn mong quấy rối, gây nhiều khổ đau
*
Nhứt Trương Phụ, lòng đao dạ kiếm
Một thuở nào ngự chiếm Thăng Long
Tưởng mình ngồi giữa cung rồng
Đêm vơ ngày vét vẫn không chịu dừng
*
Rồi đến lúc đường cùn phải chạy
Như chuột chùn, ếch nhái muỗi giun
Một trang dũng tướng anh hùng
Thân tàn danh liệt, ngậm gừng nuốt cay !
*
Không xấu hổ, còn bày mưu hiểm
Mong trở qua xâm chiếm Nam triều
Thấy dân đau khổ đã nhiều
(280) Nhà Minh đành phải theo chiều gián can
*
Không xâm lấn nhưng làm khó dễ
Bảo phải tìm hậu duệ nhà Trần
Hay đòi cống phẩm thêm phần
Trước đe sau dọa, mấy lần tạm phong
*
Nay sứ giả Trương Thông chuyển đạt (18)
Cùng Lý Kỳ, Vĩnh Dật đang chờ
Nhà vua giao thảo bức thư
Bang giao, lễ vật, cuộc cờ xác minh
*
Quan văn vỏ, thật tình phân giải
Nào ai hơn Nguyễn Trãi tài ba
Đã đem lý thánh lời hoa
Viết bao văn biểu sáng lòa đường mây
*
Xin Thánh Thượng đức dầy ân xá
Thừa Chỉ người tận dạ đáp đền
Quyết đem tài trí thấp hèn
Để cho Minh chúa không chèn nước ta
*
Vua nghe phải, truyền tha Nguyễn Trãi
Bỏ tước hầu, giữ lại thừa văn
Những quan một dạ trung thần
(300) Tung hô vạn tuế muôn phần hân hoan
*
Cứu Nguyễn Trãi khỏi gian nhà ngục
Các bạn bè tiếp tục chăm lo
Sợ khi mưa gió qua đò
Người ngay còn ngại sóng to giữa dòng
*
Vì công việc cần ông khẩn cấp
Vua sai người đến gặp ông liền
Bảo vua diện kiến tôi hiền
Cùng lo việc nước đến miền an vui
*
Bao ngày tháng ngậm ngùi trong dạ
Ánh dương quang chưa thỏa niềm tin
Gió mưa còn phải giữ gìn
Dám đâu phiền đến nghĩa tình chúa tôi
*
Vua tiếp rước, đón mời sâm rượu
Cùng nhâm nhi kể đủ nguồn cơn
Bảo rằng giặc loạn biên cương
Để ông phải chịu oan ương thế nầy
*
Đây ly rượu cùng say trước đã
Sau sẽ bàn sứ giả triều Minh
Đọc xong văn kiện sự tình
(320) Ông đem kiên nhẩn đối kình nóng nôn
*
Đã từ lâu, một đòn trách cứ
Vua nhà Minh vô lý tột cùng
Còn ta một dạ thủy chung
Một niềm thành khẩn, một lòng suy tôn
*
Ta theo thế, lời ôn lý luyện
Người dẫn đầu biết chuyện nói thưa
Biết câu đón nắng rào mưa
Khiêm nhường, kín đáo, đẩy đưa lòng người
*
Trần Thuấn Du một thời vang tiếng (19)
Đáng theo đoàn phúc kiến nhà Minh
Chính người gây được cảm tình
Của người đối diện, để mình yên thân
*
Du còn phải đem phần cống phẩm
Chia làm ba, hai tặng nhà vua
Một phần chia đủ cho vừa
Nửa Hoàng Thái hậu, nửa đưa Tử hoàng
*
Không phải thế chính nhân quân tử
Nhưng nên dùng để giữ nước nhà
Dầu sao nói giúp cho ta
(340) Hai người uy thế, cũng là phần hơn
*
Vua thích thú trước đòn yếm trá
Bảo thừa văn, vội vã thảo thư
Cho người kêu gọi Thuấn Du
Dặn dò kỹ lưỡng, đúng thư thi hành
*
Như kế hoạch, tánh danh đã rõ
Vua nhà Minh đành tỏ khoan hồng
Lý Kỳ cùng với Hữu Thông
Mang theo thánh chỉ sắc phong Nam Triều (20)
*
Vua Lê Lợi ra chiều sung sướng
Ngôi Quốc vương tận hưởng phương Nam
Từ đây khí chướng sơn lam
Hết canh phương bắc, mấy đàng thong dong

(18) Ba sứ giả Minh Triều gồm Lễ Bộ thị lang Lý Kỳ, Từ Vĩnh Dật và Trương Thông
(19) Phái đoàn sứ giả đi cống sứ nhà Minh gồm Trần Thuấn Du, Bùi Cầm Hỗ, Nguyễn Khả Chi. Trần Thuấn Du đậu khoa Minh Kinh năm Kỷ Dậu, ông là một trong 4 ông thông kinh bác sử thời đầu nhà Lê. Đó là Lý, Trần, Thân, Đỗ. Hai ông Lý Tử Tấn, Trần Thuấn Du ở nửa đầu thế kỷ thứ 15 và hai ông Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận ở cuối thế kỷ nầy (theo Bùi Văn Nguyên trong Truyện Nguyễn Trãi và Hoàng Công Khanh trong Vằng vặc sao khuya)
(20) Năm Tân Hợi (1431) vua nhà Minh chính thức sắc phong cho Lê Lợi làm An Nam Quốc vương

Các tác phẩm khác

Thanh Tùng (1935 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:14
Lượt xem 21264
Thanh Tùng (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1935-), tên thật là Doãn Tùng (con cụ Doãn An), sinh tại Mỹ Lộc, Nam Định, nhưng trưởng thành tại thành phố Hải Phòng. Các bài thơ nổi tiếng của ông đều viết về thành phố Hoa phượng đỏ.
Là nhà thơ Việt Nam, tác giả của bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng cùng tên.

Tạ Tỵ (1921-2004) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:08
Lượt xem 21514
Tạ Tỵ (1921 - 2004), tên thật là Tạ Văn Tỵ; là một họa sĩ và còn là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.
Ông sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội. Nhưng trong giấy khai sinh của ông lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn mất một năm.
Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004 (mùng 9 tháng 7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.

Quách Tấn (1910-1992) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:00
Lượt xem 22061
Quách Tấn (1910-1992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm 1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.
1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.

Phùng Khắc Khoan (1528-1613) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 16:54
Lượt xem 26707
Phùng Khắc Khoan (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự: Hoằng Phu, hiệu: Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam.
Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 tại làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tinh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm [1].
Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó.

Phan Khôi (1887-1959) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 16:47
Lượt xem 17623
Phan Khôi (潘魁, 1887-1959) là một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, về sau đứng trong trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con của Phó bảng Phan Trân (tri phủ Điện Khánh) và bà Hoàng Thị Lệ (con gái Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu).
Cuối năm 1954 hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác. Trong thời gian 1956-1957, là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, ông bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.

Phan Châu Trinh (1872–1926) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 16:39
Lượt xem 21651
Phan Châu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1], người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, tự là Tử Cán.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn[12].

Phan Bội Châu (1867–1940) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 15:01
Lượt xem 24260
Phan Bội Châu (1867–1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San.[1] Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu.[2]Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam.
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế.

Nguyễn Vỹ (1912-1971) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 14:37
Lượt xem 26398
Nguyễn Vỹ (1912[1]-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca đương thời.
Nguyễn Vỹ sinh tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, năm 1945 lại đổi là Phổ Phong), huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Thuyên[2] từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để chống Pháp. Mẹ ông là bà Trần Thị Luyến.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh Long An)-Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.

Nguyễn Nhật Ánh (1955 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 10:52
Lượt xem 25425
Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam.

Nguyễn Duy (1948 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 10:42
Lượt xem 28522
Nguyễn Duy (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948), là một nhà thơ hiện đại Việt Nam
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa.

Hiển thị 21 - 30 tin trong 2245 kết quả