Thơ

Lệ chi hận sử (14)  - Lý Tử Tấn (Nguyễn Gia Linh)  - Thơ

07/01/2015 19:55
Lượt xem 29090

Luận về Tứ Hung thời đại

Ngoài áo mũ lời ca tiếng hát
Thật tưng bừng lễ phát cân đai
Thủ khoa, Cập đệ trí tài
(1320) Từ đây hôm sớm miệt mài giúp vua
*
Lễ chấm dứt, lòng chưa muốn dứt
Ban chấm thi tổ chức rượu trà
Cùng nhau nâng chén ngâm nga
Bảo người Thường Tín thua nhà Ứng Thiên (67)
*
Mộng Tuân hỏi đề chuyên Văn sách
Có phải người phụ trách, Ức Trai ?
Vừa hay vừa quá thâm cay
Phải người trí rộng ý dài mới thông
*
Nguyễn Trãi bảo do lòng Thánh thượng
Chỉ rõ ràng ảnh hưởng người xưa
Gợi thêm vài chữ giúp vua
Miễn sao cân nhắc cho vừa bề trên
*
Bài Nguyễn Trực nói lên khác biệt
Giữa Tứ Hung, hào kiệt đương thời
Ngoài ra phân tích tuyệt vời
Lòng gian Hãn, Xão tách rời Sát, Ngân
*
Hãn, Xão chỉ có phần gian ý
Sớm về hưu, đã nghĩ đến mình
Không lo đề cử hiền minh
(1340) Hết lòng giúp nước, tận tình giúp vua
*
Khi khởi nghĩa, tranh đua gắng sức
Trong hiểm nguy tận lực hy sinh
Đến khi đất nước thái bình
Không lo kiến thiết, riêng mình cầu an
*
Còn Sát, Ngân, lòng gian ý ác
Chức Tư Đồ lấn át quyền vua
Thích làm bạn với a dua
Ghét ghen tài đức, thương ưa nịnh thần
*
Lê Xuân Chủ, mệnh thân tan tác
Chiếc lá vàng rải rác đường đi
Để người xiểm nịnh gian phi
Giẫm lên thân xác, tiếc gì công lao
*
Chúng chỉ thích ngọt ngào đường mật
Chúng chỉ mê giọng hát lời ca
Những người liêm khiết tài ba
Không chung đường nghĩ, không hòa đường suy
*
Đều phải chọn bên đi bên ở
Không chung đường ngăn trở dèm pha
Hết đời một giấc Nam kha
(1360) Đầu thân hai ngả, danh tà còn lưu
*
Càng ngẫm nghĩ lời hư lẽ thực
Bài học xưa quyền lực còn đây
Xét người, ngẫm lại hôm nay
Ai người cậy thế, yểm tài tôi trung
*
Ai dám định Tứ Hung hiện đại ?
Ai xét người tranh cãi lợi danh ?
Biết ai đem hết tài mình
Giúp dân giúp nước, công danh chẳng màng ?
*
Càng tham luận thấy càng sôi nổi
Sợ đêm tàn, tiếng dội tiếng vang
Ức Trai đành phải bàn ngang
Ta cùng nâng chén đón vầng trăng lên
*
Ánh trăng sáng gi"a nền trời thẳm
Xuyên cây cành lấm tấm kim cương
Ngàn sao trong sáng lạ thường
Như cùng đánh dấu Đình trường năm nay
*
Nguyễn Trãi muốn cùng say với bạn
Giữa đêm khuya trăng sáng vui vầy
Ngày mai rồi sẽ chia tay
(1380) Biết còn thấy lại những ngày vui tươi ?
*
Quý những lúc lòng cười mắt thốt
Giữa những người cùng một tâm hồn
Cùng đi chung một khoảng đường
Cùng chia sẻ nỗi đoạn trường khổ đau

(67) Thường Tín là quê hương của Nguyễn Như Đỗ cũng là quê hương của Nguyễn Trãi và Lý Tử Tấn. Ứng Thiên là quê hương của Nguyễn Trực

Các tác phẩm khác

Không đề  - Bằng Việt - Thơ

07/01/2015 18:42
Lượt xem 28590
Em cũng giống như cơn mưa, như trận gió lúc sang hè
Làm thức tỉnh hồn tôi nhiều biến động
Tôi im lặng, bàng hoàng khi được sống
Một ngày vui không dễ nói ra lời

Hữu Loan (1916 -2010) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:38
Lượt xem 21248
Hữu Loan (2 tháng 4 năm 1916 - 18 tháng 3 năm 2010) là một nhà thơ Việt Nam, đồng niên với nhà thơ Xuân Diệu. Quê ông tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan [2]; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914)[3] tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi (tuổi mụ hay còn gọi là tuổi âm).

Trần Tuấn Khải (1895 –1983) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:31
Lượt xem 20224
Trần Tuấn Khải (4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông là: Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ.
Trần Tuấn Khải người làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi mất vì bệnh già tại cư xá Trần Quốc Toản (cư xá Liautey của Pháp), hưởng thọ 88 tuổi (1983).

Tô Thức tên gọi Tô Đông Pha (1037-1101) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:25
Lượt xem 20677
Tô Thức (Chữ Hán: 苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.
Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Ông nội Đông Pha tên là Tô Tự, cha ông là Tô Tuân (蘇洵, tự là Minh Doãn, 1009-1066), mẹ ông họ Trình (?-1057) và em trai là Tô Triệt (蘇轍, tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con ông đều là những nhà thơ có tiếng.

Thanh Tùng (1935 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:14
Lượt xem 21252
Thanh Tùng (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1935-), tên thật là Doãn Tùng (con cụ Doãn An), sinh tại Mỹ Lộc, Nam Định, nhưng trưởng thành tại thành phố Hải Phòng. Các bài thơ nổi tiếng của ông đều viết về thành phố Hoa phượng đỏ.
Là nhà thơ Việt Nam, tác giả của bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng cùng tên.

Tạ Tỵ (1921-2004) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:08
Lượt xem 21503
Tạ Tỵ (1921 - 2004), tên thật là Tạ Văn Tỵ; là một họa sĩ và còn là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.
Ông sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội. Nhưng trong giấy khai sinh của ông lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn mất một năm.
Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004 (mùng 9 tháng 7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.

Quách Tấn (1910-1992) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 17:00
Lượt xem 22047
Quách Tấn (1910-1992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm 1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.
1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.

Phùng Khắc Khoan (1528-1613) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 16:54
Lượt xem 26707
Phùng Khắc Khoan (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự: Hoằng Phu, hiệu: Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam.
Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 tại làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tinh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm [1].
Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó.

Phan Khôi (1887-1959) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 16:47
Lượt xem 17612
Phan Khôi (潘魁, 1887-1959) là một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, về sau đứng trong trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con của Phó bảng Phan Trân (tri phủ Điện Khánh) và bà Hoàng Thị Lệ (con gái Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu).
Cuối năm 1954 hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác. Trong thời gian 1956-1957, là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, ông bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.

Phan Châu Trinh (1872–1926) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

07/01/2015 16:39
Lượt xem 21640
Phan Châu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1], người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, tự là Tử Cán.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn[12].

Hiển thị 21 - 30 tin trong 2249 kết quả