Thơ

Mộng Tuyết (1914-2007) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

07/01/2015 10:39
Lượt xem 19914

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Mộng Tuyết (1914-2007), tên thật Thái Thị Úc; là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến.

Các bút hiệu khác của bà là: Hà Tiên cô, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ sĩ, Thất Tiểu Muội. Mộng Tuyết là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư KhêTrúc Hà.

Tiểu sử

Mộng Tuyết sinh ngày 9 tháng 1 năm 1914 ở làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên (nay thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang).

Năm 12 tuổi, Mộng Tuyết bắt đầu tập làm văn ở Trí Đức Học Xá của thi sĩ Đông Hồ. Các sáng tác trong thời kỳ này, sau được tập hợp với nhan đề Bông Hoa Đua Nở đăng ở Nam Phong tạp chí năm 1930.

Năm 1939, Mộng Tuyết được bằng khen về thơ của Tự Lực Văn Đoàn với thi phẩm Phấn hương rừng, và bắt đầu nổi tiếng từ đó.

Năm 1943, bà cùng với Anh Thơ, Vân Đài, Hằng Phương xuất bản tập thơ Hương xuân. Đây là tuyển tập thơ nữ đầu tiên ở Việt Nam.

Những năm 50, bà cùng chồng là thi sĩ Đông Hồ lên Sài Gòn mở nhà sách, nhà xuất bản Bốn Phương, Yiễm Yiễm thư trang.

Tháng 3 năm 1969, chồng mất, bà lui về sống ẩn dật tại quận Tân Bình. Sau năm 1995, bà lui về sống đến hết đời tại Nhà lưu niệm thi sĩ Đông Hồ ở tại thị xã Hà Tiên.

Mộng Tuyết mất ngày 1 tháng 7 năm 2007 tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.

Tác phẩm

  • Phấn hương rừng 1939, được tặng giải “Khen tặng” của Tự Lực văn đoàn
  • Đường vào Hà Tiên (tùy bút, 1960)
  • Nàng Ái Cơ trong chậu úp (tiểu thuyết lịch sử, 1961)
  • Truyện cổ Đông Tây (1969)
  • Dưới mái trăng non (thơ, 1969)
  • Núi mộng gương hồ (hồi ký ba tập, NXB Trẻ, 1998)

Ngoài ra, bà còn dịch thơ và viết khảo cứu văn học.

Thơ, tùy bút, truyện ngắn của bà thường đăng trên các báo: Tiểu thuyết Thứ Năm, Hà Nội Báo, Con Ong, Đông Tây, Trung Bắc Chủ Nhật, Tri Tân, Gió Mùa, ánh Sáng, Nhân Loại.

Nhận xét

Tuy viết nhiều thể loại, nhưng Mộng Tuyết được biết chủ yếu như một nhà thơ. Thơ của bà, như Hoài Thanh, Hoài Chân từng nhận xét:

Còn thơ, hoặc nhẹ nhàng dí dỏm, hoặc hàm xúc lâm ly, hoặc nhớ nhung bát ngát, hoặc xôn xao rạo rực, tổng chi là lời một thiếu nữ, khi tình tự, khi đùa giỡn, khi tạ lòng người yêu. Người xem thơ bỗng thấy lòng run run như khi được đọc thư tình gửi cho một người bạn: người thấy mình đã phạm vào chỗ riêng tây của một tâm hồn, trong tay như đương nắm cả một niềm ân ái[1].

Trong Văn thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ đánh giá:

Nhất là văn xuôi, Mộng Tuyết viết rất ngọt ngào, chải chuốt, ảnh hưởng nhiều bởi những chuyện Tàu...Thơ của Mộng Tuyết cũng khác thơ Đông Hồ, nó gói ghém nhiều thi tứ hơn, ý nhị hơn[2].

Sách Tự điển Tác gia Văn hóa Việt Nam khen ngợi:

Thơ bà chuẩn mực, trong sáng, hồn nhiên đượm vẻ ngọt ngào như tiếng nói dịu dàng của những cô gái có học nơi khuê phòng...:Khởi đi từ Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Tương Phố...đến Mộng Tuyết... Tất cả đã để lại cho đời những vần thơ nho nhỏ mà trác tuyệt...[3]

Ngoài ra, Mộng Tuyết còn có những vần thơ nhiều cảm xúc, nói lên sự kiện đau thương mà anh dũng của dân tộc Việt như: "Mười khúc đoạn trường", "Dưới cờ" (1945), "Chiếc lá thị thành" (1947). Trích một đoạn:

Đây một tờ thư của thị thành
Thả về thăm hỏi chiến khu xanh.
Hỡi anh chiến sĩ mùa thu trước,
Hơn một mùa thu bận chiến tranh.
Lẫm liệt rừng thu gió tải về
Bao tờ lá đỏ chiến công ghi.
Bao tờ lá đỏ đề lời máu,
Thề quyết thành công một chuyến đi…
(Chiếc lá thị thành)

Mộng Tuyết và Đông Hồ là hai nhà thơ mới tiêu biểu của miền Nam Việt Nam.

chú thích

Các tác phẩm khác

Truyện Kiều 3101-3150 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 21:11
Lượt xem 13727
3101 “Còn chi là cái hồng nhan!
3102 “Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?
3103 “Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
3104 “Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!

Truyện Kiều 2501-2550 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 21:09
Lượt xem 15358
2501 Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
2502 Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh.
2503 Tin lời thành hạ yêu minh,
2504 Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.

Truyện Kiều 2551-2600 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 21:03
Lượt xem 16488
2551 Tin tôi, nên quá nghe lời,
2552 “Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
2553 “Ngỡ là phu quý, phụ vinh,
2554 “Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!

Truyện Kiều 2601-2650 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 21:02
Lượt xem 15488
2601 Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
2602 Lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao.
2603 Nàng càng ủ liễu phai đào,
2604 Trăm phần nào có phần nào phần tươi?

Truyện Kiều 3051-3100 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 20:58
Lượt xem 10634
3051 Ông rằng: “Bỉ thử nhất thì,
3052 “Tu hành, thì cũng phải khi tòng quyền.
3053 “Phải điều cầu Phật, cầu Tiên,
3054 “Tình kia, Hiếu nọ, ai đền cho đây?

Truyện Kiều 2651-2700 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 20:57
Lượt xem 15753
2651 Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
2652 Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
2653 “Người sao hiếu nghĩa đủ đường?
2654 “Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?”

Truyện Kiều 3151-3200 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 20:56
Lượt xem 12226
3151 “Những như âu yếm vành ngoài,
3152 “Còn toan mở mặt với người cho qua?
3153 “Lại như những thói người ta,
3154 “Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa.

Truyện Kiều 3201-3254 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 20:53
Lượt xem 10896
3201 Khúc đâu êm ái xuân tình,
3202 ấy hồn Thục đế, hay mình đỗ quyên?
3203 Trong sao châu rỏ duềnh quyên!
3204 ấm sao hạt ngọc Lam-điền mới đông!

Chiêu hồn tử sĩ  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 20:49
Lượt xem 11444
Tiết tháng bảy mưa dầm xùi xụt
Lọt hơi sương lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu
Ngàn lau khảm bạc, giếng ngô rụng vàng

Văn tế thập loại chúng sinh  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 20:48
Lượt xem 9311
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...

Hiển thị 1751 - 1760 tin trong 2214 kết quả