Thơ

Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

22/12/2014 10:46
Lượt xem 20921

nguồn : http://vi.wikipedia.org

xem thêm : tác phẩm

Nguyễn Khuyến (chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝) [1], hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam[1]. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.

Xuất thân

Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (阮宗起, 1796-1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (陳式湍, 1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc (陳公鐲), từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.

Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội.

Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn).

Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội NguyênĐình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ (三元閼堵).

Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.

Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.

Hoàn cảnh lịch sử

Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.

Lúc này Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, họ tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.

Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.

Tác phẩm

Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ,"Bạn đến chơi nhà", và 3 bài thơ hay về thu: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó để xác định vì chúng rất điêu luyện.

Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.

chú thích

Các tác phẩm khác

Truyện Kiều 1551-1600 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:02
Lượt xem 14623
1551 “Làm cho trông thấy nhãn tiền.
1552 “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”
1553 Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
1554 Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

Truyện Kiều 1601-1650 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:01
Lượt xem 14862
1601 Được lời như cởi tấc son,
1602 Vó câu thẳng ruổi, nước non quê người.
1603 Long lanh đáy nước in trời,
1604 Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

Truyện Kiều 1651-1700 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:00
Lượt xem 14413
1651 Tôi đòi phách lạc, hồn bay,
1652 Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình.
1653 Thúc ông nhà cũng gần quanh,
1654 Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời.

Truyện Kiều 1701-1750 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:37
Lượt xem 15230
1701 Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
1702 Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703 Tiếc hoa, những ngậm ngùi xuân,
1704 Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!

Truyện Kiều 1751-1800 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:32
Lượt xem 9748
1751 Dạy rằng: “May rủi đã đành,
1752 “Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
1753 “Cũng là oan nghiệp chi đây,
1754 “Sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng.

Truyện Kiều 1801-1850 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:31
Lượt xem 13400
1801 Tiểu thư đón cửa giã giề,
1802 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803 Nhà hương cao cuốn bức là,
1804 Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mừng.

Truyện Kiều 1851-1900 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:29
Lượt xem 14906
1851 Nàng đà tán hoán, tê mê,
1852 Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:
1853 Bốn dây như khóc, như than,
1854 Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!

Truyện Kiều 1901-1950 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:28
Lượt xem 14274
1901 “Ví chăng có số giàu sang.
1902 “Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
1903 “Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
1904 “Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời!”

Truyện Kiều 1951-2000 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:27
Lượt xem 14615
1951 “Quản chi lên thác xuống ghềnh,
1952 “Cũng toan sống thác với tình cho xong.
1953 “Tông đường chút chửa cam lòng,
1954 “Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.

Truyện Kiều 2001-2050 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:26
Lượt xem 8033
2001 “Ngăn tôi đứng lại một bên,
2002 “Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.”
2003 Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
2004 “Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!

Hiển thị 1671 - 1680 tin trong 2160 kết quả