Thơ

Phạm Ngọc Thái - Một bầu trời thơ sâu thẳm  - Phạm Ngọc Thái  - Thơ

07/03/2016 08:21
Lượt xem 19942

Đọc thơ Phạm Ngọc Thái, ta nhận thấy ở anh một tâm hồn tha thiết yêu thương và thường hồi ức về những kỷ niệm đã xa xưa:
                            Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng…
                            Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo
                            Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống
                            Và một mối tình ta đã tặng cho hết thảy trăng sao.

                                                        (Khoảng trôi trong lá)

     Hay bài Anh Vẫn Ở Bên Hò Tây:
                            Tình để lại vết thương không lành được
                            Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
                            Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
                            Người con gái anh yêu

                                                    nay hóa khói sương tan.
     Một số bài thơ ta lại thấy hiện lên một cái bóng bảng lảng cõi thiền, quanh quất chốn phật đài của cái buổi hoàng hôn trong cuộc đời:                            

                              Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố
                              Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu!
                              Trong sân gạch sư già quét lá
                              Bước người đi thầm lặng cõi hư hao...

                                                      (Một góc hồ Tây)

     « Mưa bay trong tiếng chuông »:

                              Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
                              Nam-mô-a-di-đà!
                              Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
                              Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là…
     Thơ Phạm Ngọc Thái giầu triết lý. Đặc điểm của tính triết lý ấy là được vận từ đời sống vào thơ, chắt ra từ tim óc nên cảm xúc mạnh mà không bị gò ép. Thí dụ:
                              Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu

                              Anh cũng không làm chàng Trương Chi

                                                                 suốt đời chèo sông vắng
                              Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng

                              Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!
                                                                (Người đàn bà trắng)

     Cái đời thường được khái quát bằng một sự trải nghiệm sâu sắc: con người với xã hội, cá nhân và thế giới. Nó mang tính đời sống triết học, tính vũ trụ… tồn tại và cát bụi. Tùy  theo cảnh tình nhào luyện thành vóc thơ ca.     

THAI hình ok

                                                                                                        Nhà thơ Phạm Ngọc Thái 

A.  ÍT NÉT VỀ SỰ KHÚC TRIẾT TRONG THƠ ĐỜI CỦA ANH

    Thơ đời Phạm Ngọc Thái đẫm tính hiện thực, xã hội và thời đại. Nó rất cô đúc. Để nói về sự vất vả, lam lũ kiếm miếng cơm manh áo của người lao động, anh ví cuộc đời của họ giống như những chiếc chổi tre kéo lê trên đường, năm tháng bị mòn vẹt dần đi:
                            Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
                            Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim
                                                 (Cô quét lá đêm hồ)
       Tác giả đã gắn nỗi lòng mình trước những sự mất mát của những con người bần hàn ấy, theo nghĩa ẩn dụ sâu sắc:
                               Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                               Con nai vàng chết bóng thu xưa...
      Hình ảnh sinh động mà đa nghĩa. Tả về cô quét lá đêm mà thơ như một khúc hát du dương, cứ thánh thót gieo thấm vào lòng ta:
                               Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                               Em thầm thì quét lá bên tôi!
     Trong bài thơ "Em bán xoài", tại một khung cảnh bên bờ biển thành phố Nha Trang.  Dưới những bóng dừa xứ sở là những thân phận đang sống nổi trôi, vất vưởng chốn nhân quần. Chủ nghĩa nhân đạo của bài thơ chính là lòng thương người và nỗi đau đời:

                             Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng"
                             Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
                             Xoài em thơm hương toả mát thân người
                             Ai mua xoài?

                                                     Còn ai có mua em?
      Để phản ảnh thân phận những lớp người xuất khẩu lao động ở nước ngoài, chẳng khác gì là đoàn quân ô hợp, bèo dạt mây trôi. Nhiều nơi nhiều chỗ tranh giành, xô xéo, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Đạo đức bị tha hoá:

                            Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi

                            Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ

                            Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...

                            Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?

                            Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên.

                                            (Nỗi trăn trở người đi tìm vàng).
      Còn ở bài « Làm ma em vợ », ta lại thấy thi phẩm nhuốm đầm nỗi kiếp đoạn trường ở trong kinh Phật:

                             Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”!
                             Sống cần cố gắng, chết rồi thôi.
                             Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
                             Anh ở vì chưng trả nợ đời.

     Nhà văn Đào Viết Minh khi bình bài thơ này đã có nhận xét:

     "Làm ma em vợ" là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ, nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này... Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng nói về nơi bể khổ dân tình - Câu thứ ba của đoạn thơ này:
                         Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
     Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm tận thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em!... /- Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời hiện đại này?... Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật để thắp cho đứa em tội nghiệp, cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi trần ai, một nén nhang đời!".

     Vân vân...


                                                                                                           Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng

B-  THƠ TÌNH PHẠM NGỌC THÁI GIÀU  SẮC THÁI VÀ HAY

     Hầu hết đều xuất phát từ những mối tình dang dở hoặc tan vỡ. Tuy tình yêu của nhà thơ với người con gái đã qua đi, nhưng trái tim anh vẫn tha thiết, nồng nàn lắm. Có khi còn tạo ra cả những thiên tình diễm lệ, rất đa dạng và phong phú.
      Tôi có thể kể ra đây một số tình thơ, như bài « Khoảng trôi trong lá », được cấu thành dưới gió mưa và trăng sao. Những kỷ niệm tình yêu xưa trở về cồn cào, day dứt trái tim thi sĩ, tạo thành cảm xúc cho thơ trào ra:

                           Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng

                           Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ

                           Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống

                           Xa nhau rồi! tình cũ đến bơ vơ...

     Tình yêu thì đã vào bụi cát, nhưng cuộc sống của anh và em thì vẫn phải tồn tại... dù trong lòng bao nỗi nhớ thương:

                          Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng

                          Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi?

                          Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát?

                          Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi !

    Chỉ có tiếng lá và tiếng gió vu vi kia đáp lại lời tâm tình đó của anh.
    Về thơ tình mùa thu thì sâu lắng và súc tích. Cái cách tả người yêu của anh thành biểu tượng:

                         Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...

                         Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...

                         ... Môi em cười hoa lá nát đau thêm.

                                                (Sáng thu vàng)

    Để rồi anh hạ một câu thơ thật đắt:

                         Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan!  

    Chữ «nuốt mùa thu» còn mang theo cả ý nghĩa thơ siêu thực. Hay ở bài « Đêm thu phố vắng »:

                        Ta sẽ viết cho ai bài thơ đêm thu vắng?
                        Tiếng trong khuya em gọi vọng rất xa
                        Trên thảm lá lòng ta say đắm
                        Tha thiết bên em vì không muốn đêm qua...

    Anh đã đem đến cho thi đàn mấy bài thơ mùa thu đặc sắc.
   « Thông và biển » là một tình thơ mà đôi trai gái đã được hoá thân vào đất trời, để ca vọng mãi tình yêu tuổi trẻ:

                       Anh đứng làm cây thông trên đá, sỏi
                       Vi vu kêu... tình thiếu nữ qua rồi!

     Trong cuộc sống đầy đá, sỏi... Tháng năm thì như một đoàn tàu nghiền đời ta thành tan nát, nhưng "thông và biển" vẫn cứ quấn quít mà hát mãi bên nhau. Chúng hát rằng: Trong sự tồn tại của đất trời chỉ có tình yêu là vĩnh cửu!
      Nếu ở bài Người Đàn Bà Trắng, ta bắt gặp một Phạm Ngọc Thái với cách triết lý về tình yêu - cuộc sống rất thực tiễn như đã nói ở trên - thì trong « Em về biển », tình yêu ấy lại được nhà thơ đẩy cao lên thành một thần tượng thiêng liêng:
                        Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                        Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật Tổ!
      Như nhà thơ Nga M.Lermôntốp đã thần tượng tình yêu đối với người đàn bà:

                        Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng

                        Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.
      Ở bài Một Góc Hồ Tây tôi thích cái câu thơ:

                       Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng

                       Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi...

      Bài thơ vẽ lên một bức hoạ mà mỗi cảnh vật đều thấm đẫm tâm linh của một con người đã bước vào tuổi hoa niên. Tâm hồn nhà thơ vẫn yêu da diết nhưng lại chơi vơi nửa vời bởi sự cô liêu, đầy sắc hư hao:
                      Trong tiếng lá bay... chầm chậm bóng ta theo...
     Về « chùm thơ áo trắng », nuối cảm những tình yêu chớm nở thưở ban mai. Có những câu thơ hình tượng gợi vào trái tim làm ta bàng hoàng, da diết:

                     Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!

                                                           (Thời áo trắng)

   Hay là:

                     Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc

                     Lang thang vài cánh bướm bơ vơ

                     Áo trắng in ngang trời - sét đánh!

                     Lưỡi dao nào cào nát tim thu?

                                              (Phố thu và áo trắng)
     Nhà thơ không khỏi bỡ ngỡ, thảng thốt như một giấc chiêm bao. Vừa mới thoáng đây thôi mà mình đã già rồi? Vì thế nên cả thành phố cũng hiu hắt, cô đơn cùng nỗi lòng anh, muốn níu kéo lại một thuở nào:
                      Trả lại cho anh một thời áo trắng
                      Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
     Trái tim của nhà thơ nhiều khi giống như một con tầu chở đầy ắp tình yêu chuyển bánh. Con tầu ấy chạy qua những cái quán cô quạnh trong tiếng gió hú, những vầng trăng chết đuối đang trôi, những làn mây lang thang ở chân trời và cả thành phố đang chìm đắm trong đêm. Tình yêu người thiếu nữ như hồi chuông nơi thánh đường trắng trinh,  vuốt ve trái tim đau nhói của nhà thơ. Trái tim ấy như một loài hoa không ngủ, nó bay theo con tầu chuyển bánh đi mãi, đi mãi tới vô cùng:
                  Quán cô quạnh suốt đời nghe gió hú

                  Trăng chết đuối rồi… trắng dại… đang trôi…
                  Mây lang thang dưới chân trời bão tố

                  Thành phố chìm trong đêm xa xôi.

     Và:

                   Hương đã theo anh và con tầu chuyển bánh

                   Đến vô cùng mà chẳng biết đi đâu?

                                    (Trong bóng cây ngủ đêm)
     Tình yêu trong hoài vọng, trong kí ức là vô vi… nhưng nó vẫn như cánh chim bay xa, mang đến cho anh cả đau khổ cùng hạnh phúc, khát vọng và tan vỡ! Những hình tượng thi ca chứa đầy ắp trong tâm hồn của nhà thơ, theo cảm xúc dào dạt bay ra mà tạo thành hàng trăm áng thi ca ngập tràn hương sắc.

    Có khi chỉ nằm trong nhà nghe thấy tiếng rúc của một con chim đêm trong bụi cây, với nỗi trống trải cô dơn của lòng mình - Thế là tác giả liên tưởng tới câu chuyện tình của đôi chim:
                   Chim gọi đàn - Anh gọi tên em

                    Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
                   Có lẽ nào em không về nữa?

                   Để hồn anh hoang mạc bơ vơ...
     Và chuyện "tình chim" trở thành chuyện "tình người". Mối tình cũ lại gợi về:

                   Đã xa rồi! Mùa dĩ vãng trăng mơ

                   Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi…

    Để rồi:

                   Con chim đêm run rẩy bóng xanh già

                   Anh bổi hổi một thời qua vọng lại...

                                        (Tiếng rúc chim đêm)
     Đó là tiếng run rẩy của con chim? Không! Đó là tiếng run rẩy của trái tim thi sĩ còn vọng mãi vào năm tháng xa xôi, vô cùng, vô tận kia. Tiếng lòng của anh vọng gọi người yêu!? Thơ đã mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc trong tình yêu và sự sống con người.      

     Thơ tình của Phạm Ngọc Thái nhiều vô kể, sâu sắc và không ít thi phẩm đã đạt được tầm vóc là những bài thơ tình hay! Hầu hết đều  là thơ tự do hiện đại. Tác giả rất coi trọng tính nhạc và giọng điệu nên thơ đọc cuốn hút, truyền cảm được trái tim đời. Có thể nói, thơ Phạm Ngọc Thái như một bầu trời mênh mông sâu thẳm... được chẩy ra từ trong máu tim và cuộc đời. Càng đọc sâu càng thấm thía.

NGUYỄN THỊ HOÀNG

Giảng viên Trường ĐH Sư phạm

Các tác phẩm khác

Nguyễn Bính (1918-1966) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:38
Lượt xem 30928
Nguyễn Bính (tên thật là Nguyễn Trọng Bính; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.
Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).[1]
Hầu như ai cũng biết rằng nhà thơ Nguyễn Bính qua đời vào một ngày giáp Tết Bính Ngọ (1966), chính xác là ngày 29 Tết (tháng chạp này không có ngày 30).

Chế Lan Viên (1920-1989) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:37
Lượt xem 32295
Chế Lan Viên (1920-1989) là một nhà thơ, nhà văn hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi.

Hồng Nguyên (1924-1951) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:37
Lượt xem 21620
Nhà thơ Hồng Nguyên tên khai sinh là Nguyễn Văn Vượng, sinh năm 1924 tại xã Đông Thọ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1951, Hồng Nguyên lâm trọng bệnh và mất tại quê nhà khi ông đang là Trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Thanh Hóa.

Nguyễn Thi (1928-1968) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:37
Lượt xem 24138
Nguyễn Thi là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng trong thời kì chiến tranh Việt Nam, ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000.
Nguyễn Thi (1928-1968) tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca (bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn), quê ở xã Quần Phương Thượng (nay là xã Hải anh), huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Nguyễn Thi hi sinh ở mặt trận Sài Gòn, trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.

Nguyễn Thành Long (1925-1991) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:36
Lượt xem 30093
Nguyễn Thành Long (1925 - 1991) - nhà văn, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957)
Nhà văn Nguyễn Thành Long tên thật là Nguyễn Thành Long, còn có các bút danh Lưu Quỳnh, Phan Minh Thảo. Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm 1925 tại Duy Xuyên - Quảng Nam, nguyên quán ở Quy Nhơn, Bình Định.
Ông mất ở Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 1991.

Nguyễn Minh Châu (1930-1989) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:36
Lượt xem 31364
Nguyễn Minh Châu (20 tháng 10 năm 1930 - 23 tháng 1 năm 1989) là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của đổi mới.
Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.

Nguyễn Mỹ (1935-1971) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:36
Lượt xem 34139
Nguyễn Mỹ (21 tháng 2 năm 1935 - 16 tháng 5 năm 1971), là một nhà thơ Việt Nam
Nguyễn Mỹ sinh ngày 21 tháng 2 năm 1935, tại thôn Trung Lương, xã An Nghiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Nguyễn Mỹ tử thương ngày 16 tháng 5 năm 1971 ở huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam trong một trận càn của đối phương.

Lê Anh Xuân (1940-1968) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:36
Lượt xem 58435
Lê Anh Xuân (1940-1968) là một nhà thơ Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì những đóng góp của mình.
Ông tên thật là Ca Lê Hiến, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1940 tại thị xã Bến Tre, nguyên quán ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày (nay thuộc huyện Mỏ Cày Bắc), tỉnh Bến Tre.
Lê Anh Xuân hy sinh ngày 21 tháng 5 năm 1968 tại ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An trong một trận càn của quân đội Mỹ.

Xuân Quỳnh (1942-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:35
Lượt xem 24180
Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa ...
Bà tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại làng La Khê, xã Văn Khê, ven thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.

Lưu Quang Vũ (1948-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp  - goldonline.vn - Thơ

22/12/2014 10:35
Lượt xem 26347
Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 - 29 tháng 8 năm 1988) là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam.
Ông sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở phường Hải Châu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ
Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai[1] Lưu Quỳnh Thơ.

Hiển thị 551 - 560 tin trong 2682 kết quả