Thơ

Thanh Tùng (1935 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp  - goldonline.vn  - Thơ

07/01/2015 17:14
Lượt xem 21607

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Thanh Tùng (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1935-), tên thật là Doãn Tùng (con cụ Doãn An), sinh tại Mỹ Lộc, Nam Định, nhưng trưởng thành tại thành phố Hải Phòng. Các bài thơ nổi tiếng của ông đều viết về thành phố Hoa phượng đỏ.

nhà thơ Việt Nam, tác giả của bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng cùng tên.

Tiểu sử

Thanh Tùng làm nghề khuân vác trên bến cảng Hải Phòng, sau đó chuyển sang làm công nhân đóng tàu. Có thời gian dài ông làm nghề áp tải.[1]. Thời kỳ bài thơ "Thời hoa đỏ" được phổ nhạc, ông hành nghề bán sách trên vỉa hè sau khi thôi làm công nhân đóng tàu.

Trong nhiều năm sáng tác thơ, Thanh Tùng chưa tạo ra các "sự kiện to lớn" để báo chí viết về ông nhiều như là "người của công chúng". Tuy nhiên, ông có những bài thơ được phổ nhạc trở nên rất nổi tiếng là Thời hoa đỏ (nhạc Nguyễn Đình Bảng), Hà Nội ngày trở về (nhạc Phú Quang)... Sở dĩ Doãn Tùng lấy bút danh Thanh Tùng vì ông thương người em ruột tên là Thanh mắc bệnh tâm thần nên đem tên em vào trước tên mình.[1]

Năm 1997, ông được cử làm đại diện của Việt Nam sang Hy Lạp đọc thơ với đại biểu các nước. Năm 2001, Thanh Tùng mới xuất bản tập thơ đầu tiên cho riêng mình mang tên Thời hoa đỏ (NXB Văn học) được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng năm 2002[cần dẫn nguồn]. Ngoài bài thơ Hà Nội ngày trở về, Phú Quang còn chọn 2 bài thơ khác của ông là Người vềMùa thu giấu em để phổ nhạc.[1]

Đời tư

Thanh Tùng từng trải qua hai cuộc hôn nhân. Cuộc hôn nhân lần đầu của ông đã tan vỡ. Cuộc tình này được mô tả là hai người "đến với nhau bắt đầu và kết thúc cũng vì thơ". Người vợ đầu của Thanh Tùng (tên Thanh Nhàn) ở Hải Phòng nổi tiếng có nhan sắc, sau đó đã chia tay ông đi lấy người khác ở Quảng Ninh[cần dẫn nguồn]. Tuy chia tay nhau nhưng Thanh Tùng vẫn yêu thương người vợ này.[2]

Năm 1973, nghe tin người vợ cũ qua đời vì bệnh tim, ông tức tốc xuống Quảng Ninh nơi bà đã sống trong những tháng ngày xa ông để tiễn đưa nhau lần cuối. Và bài thơ Thời hoa đỏ đã ra đời trong hoàn cảnh này. Nhân vật nữ trong bài thơ chính là người vợ đầu trong mối tình tan vỡ của ông[2]

Năm 1995, theo sự mai mối của vợ chồng nhà thơ Hoàng Hưng, Thanh Tùng vào Nam lập gia đình mới khi đã 60 tuổi. Người vợ thứ 2 của ông là thanh niên xung phong thời chống Mỹ, cũng là một độc giả yêu mến thơ của ông.[1][2] Sau khi vào nam, ông đã sáng tác trường ca Phương Nam.

Các tác phẩm

  • Thời hoa đỏ
  • Con sông chảy từ lòng phố
  • Cửa sóng
  • Trường ca Phương Nam
  • "Gió và chân trời", nxb Hải Phòng, 1985
  • "Khúc hát quê xa", nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2004
  • "Cái ngày xưa ấy", nxb Đà Nẵng, 2004
  • "Thuyền đời", nxb Đà Nẵng, 2006

Nhạc sĩ Phú Quang có nhận xét về thơ của Thanh Tùng:

"Tôi đã phổ của Thanh Tùng ba bài thơ "Người về", "Hà Nội ngày trở về" và "Mùa thu giấu em". Riêng bài Hà Nội ngày trở về thì câu hát "vội vã trở về, vội vã ra đi" đã trở thành câu cửa miệng của nhiều người. Phải thừa nhận, Thanh Tùng có những câu thơ thật thi sĩ, đọc một lần thì ám ảnh khôn nguôi. Ngoài cái tứ, thơ Thanh Tùng cũng giàu nhạc điệu. Tôi đang phổ một bài thơ khác của Thanh Tùng viết về mẹ với hình ảnh đắt giá "tiếng mẹ run như sóng, tiếng mẹ mềm như tơ, mẹ cười hay mẹ khóc, chỉ thấy mắt ta mờ".[1]

chú thích

Các tác phẩm khác

Truyện Kiều 1351-1400 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:08
Lượt xem 10162
1351 “Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
1352 “Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
1353 “ở trên còn có nhà thông,
1354 “Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?

Truyện Kiều 1401-1450 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:07
Lượt xem 15970
1401 “Lượng trên quyết chẳng thương tình,
1402 “Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”
1403 Thấy lời sắt đá tri tri,
1404 Sốt gan, ông mới cáo quì cửa công.

Truyện Kiều 1451-1500 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:04
Lượt xem 16020
1451 Cười rằng: “Đã thế thì nên,
1452 “Mộc già hãy thử một thiên, trình nghề.”
1453 Nàng vâng cất bút tay đề,
1454 Tiên hoa trình trước án phê, xem tường.

Truyện Kiều 1501-1550 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:03
Lượt xem 15135
1501 Sông Tần một dải xanh xanh,
1502 Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương-quan.
1503 Cầm tay dài ngắn thở than,
1504 Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.

Truyện Kiều 1551-1600 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:02
Lượt xem 14621
1551 “Làm cho trông thấy nhãn tiền.
1552 “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”
1553 Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
1554 Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

Truyện Kiều 1601-1650 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:01
Lượt xem 14862
1601 Được lời như cởi tấc son,
1602 Vó câu thẳng ruổi, nước non quê người.
1603 Long lanh đáy nước in trời,
1604 Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

Truyện Kiều 1651-1700 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

22/08/2013 10:00
Lượt xem 14411
1651 Tôi đòi phách lạc, hồn bay,
1652 Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình.
1653 Thúc ông nhà cũng gần quanh,
1654 Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời.

Truyện Kiều 1701-1750 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:37
Lượt xem 15228
1701 Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
1702 Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703 Tiếc hoa, những ngậm ngùi xuân,
1704 Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!

Truyện Kiều 1751-1800 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:32
Lượt xem 9742
1751 Dạy rằng: “May rủi đã đành,
1752 “Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
1753 “Cũng là oan nghiệp chi đây,
1754 “Sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng.

Truyện Kiều 1801-1850 (tác phẩm có 3254 hàng)  - Nguyễn Du - Thơ

21/08/2013 22:31
Lượt xem 13400
1801 Tiểu thư đón cửa giã giề,
1802 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803 Nhà hương cao cuốn bức là,
1804 Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mừng.

Hiển thị 1731 - 1740 tin trong 2224 kết quả